bức cung
"bức cung" được hiểu như sau:
Hành vi của người có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động tư pháp đã sử dụng những thủ đoạn khác nhau cưỡng ép người bị lấy lời khai phải khai sai những điều họ biết.Chủ thể của hành vi bức cung là người có trách nhiệm lấy lời khai trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Họ có thể là Điều tra viên, Kiểm sát viên hoặc Thẩm phán. Đối tượng của hành vi này có thể là bị can, bị cáo, người bị hại hoặc người làm chứng.Thủ đoạn mà người bức cung sử dụng để cưỡng ép người bị lấy lời khai phải khai sai sự thật có thể là: đe dọa sẽ dùng nhục hình; đe dọa sẽ xử nặng; đe dọa sẽ bắt giam, sẽ xét xử người thân thích...Bức cung không chỉ xâm phạm quyền nhân thân của người bị lấy lời khai mà còn có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như dẫn đến bắt giam sai, xử sai, xử oan, bỏ lọt người phạm tội, xử quá nặng hoặc quá nhẹ... Do có tính nguy hiểm cho xã hội như vậy nên bức cung luôn bị coi là hành vi trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm cấm. Để góp phần đấu tranh có hiệu quả, ngăn ngừa hành vi bức cung, luật hình sự Việt Nam đã quy định hành vi bức cung là tội phạm trong những trường hợp nhất định. Đó là tội bức cung được quy định trong luật hình sự Việt Nam ngay từ khi có Bộ luật hình sự đầu tiên - Bộ luật hình sự năm 1985 và tiếp tục được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 với mức xử phạt nghiêm khắc hơn. Trong hai bộ luật này, tội bức cung đều được quy định trong Chương “Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp". Theo đó, hành vi bức cung bị coi là tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng. Đó có thể là hậu quả bắt giam người sai hoặc xét xử sai (xử oan, bỏ lọt tội phạm, xử quá nặng hoặc quá nhẹ...).Hình phạt cao nhất có thể áp dụng cho người phạm tội này là hình phạt tù tới 10 năm và kèm theo đó là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ đến 5 năm.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, tội bức cung được quy định tại Điều 374 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.