Hệ thống pháp luật

Bảo lưu trật tự công cộng

Ngày gửi: 14/01/2020 lúc 23:02:24

Tên đầy đủ:
Số điện thoại: xxx
Email: *****@gmail.com

Mã số: HTPL18800

Câu hỏi:

Luật sư có thể giải thích cho em hiểu thế nào là "Bảo lưu trật tự công cộng" không? Em xin cảm ơn!

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Trật tự công cộng có thể hiểu là tình trạng xã hội của một quốc gia trong một thời điểm xác định mà hòa bình ổn định và an toàn công cộng không bị xáo trộn.

Khái niệm về “trật tự công” là một thuật ngữ trừu tượng trong pháp luật hầu hết các quốc gia, dưới góc độ tư pháp quốc tế được hiểu là trật tự pháp lý hình thành trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia. Qua đó có thể hiểu bảo lưu trật tự công cộng là bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của một quốc gia.

Để hiểu rõ hơn về vấn đề này có thể viện dẫn một ví dụ truyền thống sau: Anh A công dân I rắc 35 tuổi muốn kết hôn với chị B công dân Việt Nam 25 tuổi tại Việt Nam. Tuy nhiên anh A đã có hai vợ.Có thể thấy đây là trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài nên quy phạm xung đột (QPXĐ) sẽ được viện dẫn để giải quyết, cụ thể Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình có ghi:

“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn”(nguyên tắc Luật quốc tịch của của các bên).

Chị B có đủ điều kiện kết hôn và như vậy chị B phải tuân theo các điều kiện kết hôn quy định trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam. Tương tự, anh A cũng  phải tuân thủ luật của I rắc mà theo pháp luật I rắc một người đàn ông được lấy tối đa là bốn vợ. Trong ví dụ này anh A cũng đủ điều kiện kết hôn.

Nhưng khi họ xin đăng kí kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì bị từ chối. Tại sao vậy? Tìm hiểu nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng (BLTTCC) sẽ giúp chúng ta giải đáp thắc mắc trên.

Khi vận dụng và thực hiện các quy phạm xung đột, đôi khi trong thực tế xuất hiện hiện tượng các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền không áp dụng luật nước ngoài, nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình. Tình huống trên trong lí luận tư pháp quốc tế gọi là bảo lưu trật tự công cộng. Bởi nếu áp dụng khoản 1 Điều 103 sẽ dẫn đến hậu quả là cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng hệ thống pháp luật nước ngoài có nội dung vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (hay trật tự công cộng Việt Nam) vì pháp luật hôn nhân gia đình Việt Nam chỉ thừa nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng theo Điều 9 của Luật HN và GĐ năm 2000. Vậy trong trư­ờng hợp này cơ quan có thẩm quyền có thể từ chối (hay loại bỏ) không áp dụng pháp luật nư­ớc ngoài đó để áp dụng pháp luật nước mình, bảo vệ trật tự công của Việt Nam.

Trong t­ư pháp quốc tế, bảo l­ưu trật tự công cộng đư­ợc sử dụng:

“Khi cơ quan có thẩm quyền sử dụng các quy phạm xung đột của quốc gia dẫn chiếu đến pháp luật nước ngoài, như­ng không áp dụng hệ thống pháp luật n­ước ngoài đó (mà trên thực tế đáng lẽ sẽ đ­ược áp dụng), hoặc không thừa nhận hiệu lực phán quyết của toà án nư­ớc ngoài, do phán quyết đó làm phát sinh một tình thế trái với các nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật của mình hoặc nếu xét thấy việc áp dụng pháp luật n­ước ngoài là vi phạm các quy định có tính chất thiết lập nền tảng chính trị, pháp lý, kinh tế, xã hội của quốc gia mình, nhằm bảo vệ trật tự công quốc gia”.

Ở Việt Nam, quy định về “ Bảo lưu trật tự công cộng” được ghi nhận rất rõ rang và cụ thể ở Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005 khoản 4 “…,nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ở đây, rõ rang “trật tự công cộng” phải hiểu là hệ thống các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nan và chúng được quy định trong Hiến pháp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 và các văn bản pháp luật khác.

Ngoài ra, vấn đề “ Bảo lưu trật tự công cộng” còn được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc kí kết. Ví dụ: Điều 5 Công ước New York 1958 về công nhận và thực hiện các quyết định của trọng tài nước ngoài; Điều 7 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên bang Nga năm 1998; Điều 12 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Ba Lan năm 1993…

Để vận dụng đ­ược nguyên tắc bảo l­ưu trật tự công thì vấn đề lớn nhất đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền là xác định khi nào thì pháp luật n­ước ngoài bị coi là trái trật tự công quốc gia? Pháp luật n­ước ngoài sẽ đư­ợc áp dụng giới hạn trong phạm vi nào? Trong khi hai khái niệm này trong pháp luật quốc gia và ngay cả việc xác định hay tìm hiểu về pháp luật nước ngoài còn trừu tượng, phức tạp và không dễ xác định.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM