Hệ thống pháp luật

bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

"bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp" được hiểu như sau:

Bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp.Chủ thể quyền sở hữu công nghiệp có thể là tác giả, chủ văn bằng bảo hộ hoặc người sử dụng hợp pháp đối tượng quyền sở hữu công nghiệp.Bộ luật dân sự Việt Nam quy định đối tượng của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng khác được pháp luật quy định. Muốn đối tượng được bảo hộ thì chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp phải nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ. Những đối tượng sở hữu công nghiệp trái với lợi ích xã hội, trật tự công cộng, nguyên tắc nhân đạo và đối tượng khác mà pháp luật về sở hữu công nghiệp có quy định không được bảo hộ thì không được Nhà nước cấp văn bằng bảo hộ.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được quy định tại Phần thứ ba Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 do Quốc hội khóa 11 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005.