Hệ thống pháp luật

bảo hiểm

"bảo hiểm" được hiểu như sau:

Bảo đảm bằng hợp đồng, theo đó, bên bảo hiểm sẽ chi trả tiền hoặc bồi thường vật chất khi xảy ra sự kiện do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định trên cơ sở người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Việc trả tiền hoặc bồi thường được thể hiện bằng một hợp đồng giữa tổ chức bảo hiểm và người bảo hiểm.Bảo hiểm đóng vai trò là một phương thức lập quỹ tiền tệ (quỹ bảo hiểm) để bù đắp những thiệt hại do rủi ro (thiên tai, tai nạn...) hoặc do các sự kiện liên quan đến đời sống con người (sự kiện chết, ốm đau...). Hình thức sơ khai của bảo hiểm mang tính cộng đồng là lập quỹ tương trợ. Quỹ này do những người có quan hệ nghề nghiệp lập ra để giúp đỡ thành viên gặp rủi ro. Hơn 4.000 năm trước Công nguyên, các thợ đá ở Ai Cập, các thương nhân ở Trung Quốc đã biết liên kết cộng đồng để bảo hiểm thông qua việc lập các quỹ tương trợ. Hình thức bảo hiểm nhằm mục đích thương mại đầu tiên xuất hiện ở Babylon vào khoảng 1.700 năm trước Công nguyên. Khác với phương thức tổ chức và hoạt động của các quỹ tương trợ, bảo hiểm nhằm mục đích thương mại, do các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện. Cùng với sự ra đời của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp, phương thức và kỹ thuật thực hiện kinh doanh bảo hiểm cũng ngày càng phát triển. Ở Italia, Tây Ban Nha đầu thế kỷ XIV các bản hợp đồng hàng hải đã được thiết lập. Ở Anh, từ cuối thế kỷ XVII bảo hiểm hàng hải được thực hiện như một nghiệp vụ kinh doanh và đến đầu thế kỷ XVIII, nhiều nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm mới ra đời như bảo hiểm hỏa hoạn (cùng với sự phát triển các đô thị ở thế kỷ XVIII), bảo hiểm thân thể... Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy kinh doanh bảo hiểm trở thành ngành kinh doanh dịch vụ với nhiều loại hình bảo hiểm (có tới 100 và được chia thành ba loại lớn: bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm) và mang lại lợi nhuận khổng lồ cho các nhà tư bản. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện nguyên tắc nhà nước độc quyền kinh doanh bảo hiểm nên hoạt động bảo hiểm mang tính thương mại gọi là bảo hiểm nhà nước. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh kinh doanh bảo hiểm, do đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm không thuần túy mang tính nhà nước như trước. Hợp đồng bảo hiểm được ký kết giữa bên bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Bên bảo hiểm là bên nhận phí bảo hiểm và có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm hoặc đền bù vật chất bị tổn thất khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.Bảo hiểm có thể được phân chia làm nhiều loại. Căn cứ vào ý chí của các bên, bảo hiểm gồm hai loại: bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Căn cứ vào mục tiêu của hành động bảo hiểm, bảo hiểm gồm có hai loại: bảo hiểm thương mại và bảo hiểm phi thương mại. Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm, bảo hiểm gồm: bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.Ở Việt Nam, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hoạt động kinh doanh bảo hiểm do Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam thực hiện theo Quyết định số 179/CP của Hội đồng Chính phủ ban hành ngày 17.12.1964. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) được thành lập ngày 25.01.1975, là cơ quan bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam gồm nhiều công ty ở các tỉnh, thành trực thuộc trung ương. Bảo Việt là thành viên của Hội đồng bảo hiểm trách nhiệm chủ tàu miền tây nước Anh (WOE). Đây là hình thức tái bảo hiểm, một thông lệ phổ biến trên thế giới. Các công ty bảo hiểm quốc gia thường mua bảo hiểm của các công ty tái bảo hiểm quốc tế nhằm phân tán rủi ro mà mình chịu trách nhiệm bảo hiểm và chịu sự tổn thất.Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09.12.2000 là văn bản pháp luật quy định có hệ thống về tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. Theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, bên bảo hiểm là doanh nghiệp được tổ chức theo các hình thức: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp liên doanh với người nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Ngoài doanh nghiệp bảo hiểm là chủ thể trực tiếp ký hợp đồng với người tham gia bảo hiểm, kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm còn có doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, tổ chức và cá nhân làm đại lý bảo hiểm.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 nay được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 24 tháng 11 năm 2010.