bảo đảm tiền vay
"bảo đảm tiền vay" được hiểu như sau:
Biện pháp được sử dụng để bên cho vay thu hồi nợ trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ hoàn trả tiền vay.Theo quan niệm phổ biến ở các nước thì bảo đảm tiền vay là một biện pháp khấu trừ nghĩa vụ.Trong trường hợp bên vay không thực hiện hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên cho vay (trái chủ) sẽ xử lý tài sản bảo đảm và số nợ bên vay phải trả được trừ vào giá trị tài sản được xử lý. Do đó, đối tượng bảo đảm tiền vay có thể là tài sản hoặc quyền tài sản trị giá được bằng tiền. Bảo đảm tiền vay là một dạng của bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, được thực hiện thông qua các hình thức như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba.Ở Việt Nam theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đều có ý nghĩa bảo đảm để khấu trừ nghĩa vụ. Tuy vậy, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29.12.1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng (được sửa đổi, bổ sung bằng nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25.10.2002) quy định: Bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Do các biện pháp bảo đảm tiền vay ngoài mục đích khấu trừ nghĩa vụ trả nợ tiền vay còn nhằm phòng ngừa rủi ro nên các biện pháp bảo đảm tiền vay được quy định gồm hai loại: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản và các biện pháp phi tài sản.Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản gồm: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Biện pháp bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có đảm bảo bằng tài sản gồm: tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có đảm bảo bằng tài sản; tổ chức tín dụng thực hiện chỉ định cho vay của Chính phủ (đối với tổ chức tín dụng nhà nước); bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội trong trường hợp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay.Trong quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống tín dụng, pháp luật Việt Nam ngày càng mở rộng quyền của các tổ chức tín dụng trong việc lựa chọn biện pháp đảm bảo tiền vay. Không tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào bảo đảm tiền vay và việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các bên.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bảo đảm tiền vay được quy định tại Điều 15 Thông tư 39/2016/TT – NHNN do Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.