Hệ thống pháp luật

bảo đảm thi hành án

"bảo đảm thi hành án" được hiểu như sau:

Biện pháp do pháp luật quy định mà Tòa án có thể quyết định áp dụng để bảo đảm cho bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành.Trong tố tụng hình sự, Tòa án có thể áp dụng biện pháp bắt giam bị cáo hoặc biện pháp ngăn chặn thích hợp khác để bảo đảm thi hành án. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa sơ thẩm, thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo hoặc thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.Trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, của đương sự áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo đảm việc thi hành án. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể là: cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện một số hành vi nhất định; cho thu hoạch và bảo quản sản vật có liên quan đến tranh chấp; kê biên tài sản đang tranh chấp, phong tỏa tài khoản; cấm chuyển dịch tài sản đang tranh chấp; tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động hoặc quyết định hành chính bị khiếu kiện;...Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bảo đảm thi hành án trong tố tụng hình sự được quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.