Hệ thống pháp luật

bào chữa

"bào chữa" được hiểu như sau:

Việc dùng lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo.Bào chữa là quyền hiến định của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự. Quyền này được ghi nhận ngay trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Hiến pháp năm 1946, tại Điều 67 Hiến pháp quy định: "Người bị cáo được tự bào chữa hoặc nhờ luật sư". Trước đó, tại Điều 5 sắc lệnh ngày 13.9.1945 thiết lập các tòa án quân sự quy định: "bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho". Quy định này được thực hiện suốt từ đó cho đến khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Trên cơ sở kế thừa các văn bản pháp luật cũ, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 mở rộng quyền bào chữa cho cả bị can chứ không dừng lại đối với bị cáo (Điều 12). Đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục quy định quyền bào chữa tại Điều 11, theo đó bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Tự bào chữa là hình thức bị can, bị cáo tự sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. Nhờ người khác bào chữa là hình thức bị can, bị cáo nhờ người khác bào chữa, bảo vệ cho họ. Khi nhận bào chữa, người bào chữa được sử dụng các biện pháp do luật quy định để bào chữa cho bị can, bị cáo và giúp đỡ các bị can, bị cáo về mặt pháp lý.Hai hình thức này có thể cùng được sử dụng để bào chữa cho bị can, bị cáo trong vụ án. Việc quy định quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam thể hiện sự dân chủ trong hoạt động tố tụng, góp phần bảo đảm cho điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bị can, bị cáo.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam,  việc bào chữa được quy định tại Điều 60, Điều 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.