Hệ thống pháp luật

ban quản lý khu công nghiệp

"ban quản lý khu công nghiệp" được hiểu như sau:

Cơ quan quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập.Ban quản lý khu công nghiệp có tư cách pháp nhân, có tài khoản, có con dấu hình Quốc huy, có biên chế và kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp.Mô hình lập ban kiểm soát trong doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị đã được thực hiện kể từ khi có Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995. Theo đó, ban kiểm soát cũng do hội đồng quản trị thành lập để giúp hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc hoặc giám đốc, bộ máy doanh nghiệp và các đơn vị thành viên (nếu có) trong hoạt động tài chính, chấp hành điều lệ doanh nghiệp, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị, chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 chưa quy định tiêu chuẩn và điều kiện để trở thành thành viên của ban kiểm soát.Ban quản lý khu công nghiệp gồm trưởng ban, một số phó trưởng ban, các ủy viên và bộ máy giúp việc. Ban quản lý khu công nghiệp có nhiệm vụ và quyền hạn: xây dựng quy hoạch phát triển khu công nghiệp, phương án hoạt động của khu công nghiệp; xây dựng điều lệ quản lý khu công nghiệp trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; tiếp nhận hồ sơ xin đầu tư, tổ chức thẩm định và cấp giấy phép đầu tư theo ủy quyền; kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định trong giấy phép đầu tư, các quy định của pháp luật về lao động tiền lương, bảo vệ môi trường; quản lý các hoạt động dịch vụ trong khu công nghiệp...Để thực hiện quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp, Chính phủ thành lập ban quản lý các khu công nghiệp Việt Nam và các ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh hoặc tương đương, cá biệt, có thể thành lập ban quản lý một khu công nghiệp.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý khu công nghiệp được quy định từ Điều 61 đến Điều 63 Nghị định số 82/2018/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 22 tháng 05 năm 2018.