Hệ thống pháp luật

bản án

"bản án" được hiểu như sau:

Văn bản ghi nhận phán quyết của tòa án sau khi xét xử một vụ án.Thuật ngữ “bản án” được sử dụng lần đầu tiên tại Sắc lệnh thiết lập các tòa án quân sự ngày 13.9.1945. Tuy nhiên, đến ngày 3.3.1969 Tòa án nhân dân tối cao mới ban hành Thông tư số 1-UB hướng dẫn về cơ cấu bản án và cách viết bản án.Bản án đánh dấu sự kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cho nên nội dung của nó phải phản ánh những kết quả của phiên tòa và ý kiến phân tích, đánh giá của hội đồng xét xử. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ viết bản án. Ở một số nước, thuật ngữ bản án chỉ dùng trong trường hợp xét xử vụ án hình sự, còn trong việc giải quyết vụ kiện dân sự thì văn bản ghi nhận quyết định của Tòa án tuyên xử gọi là quyết định của tòa án. Ở Việt Nam, trong lĩnh vực hình sự cũng như dân sự đều dùng thuật ngữ chung là bản án. Bản án trong lĩnh vực hình sự gọi là bản án hình sự. Bản án trong lĩnh vực dân sự gọi là bản án dân sự.Theo Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2003, tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để ra bản án hình sự (Xt. Bản án hình sự).Đối với bản án dân sự, theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì tòa án ra bản án dân sự nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Xt. Bản án dân sự).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản án hình sự được quy định tại Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015; bản án dân sự được quy định tại Điều 266, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.