Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

–––––––––––––––

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––

Bản án số: 401/2024/HS-PT Ngày: 28-5-2024

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

  • Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Văn An

    Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Thúy Hòa Ông Trần Văn Đạt

  • Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Văn Cường – Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa: ông Phạm Ba Duy - Kiểm sát viên.

    Ngày 28 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 79/2024/TLPT- HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Phan thị Ngọc Dương và các bị cáo khác; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 596/2023/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Các bị cáo kháng cáo:

  1. Phan Thị Ngọc D; giới tính: Nữ; sinh ngày: 10/10/1989, tại tỉnh Quảng Nam; nơi đăng ký thường trú: thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; chỗ ở: A N, phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan H và bà Đinh Thị V; có chồng và 01 con sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo tại ngoại; có đơn xin xét xử vắng mặt.

  2. Lê Thị Thu T; giới tính: Nữ; sinh ngày: 06/7/1998, tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi đăng ký thường trú: thôn T, xã P, huyện Đ, tỉnh Quãng Ngãi; chỗ ở: Căn hộ A, CT1, chung cư S, số F đường số A, khu phố B, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê D1 và bà Võ Thị T1; tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo tại ngoại; có mặt.

  3. Đỗ Quốc V1; giới tính: Nam; sinh ngày: 17/9/1983, tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nơi đăng ký thường trú: 232/8 Quốc lộ A, Phường B, quận B, Thànhphố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Mạnh D2 và bà Nguyễn Thị H1; có vợ và 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Người bào chữa:

  1. Luật sư Nguyễn Hoài N - Văn phòng L2, thuộc Đoàn Luật sư Thành phốH bào chữa cho bị cáo Phan Thị Ngọc D; có mặt.

  2. Luật sư Hồ Hoài N1 - Văn phòng L3, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh P bào chữa cho bị cáo Lê Thị Thu T; có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo khác và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 28/7/2022, Cơ quan An ninh điều tra - Công an Thành phố H nhận được Phiếu chuyển nguồn tin về tội phạm của Công an tỉnh N, về việc: Công antỉnh N vừa triệt phá đường dây đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá qua mạng Internet, trong vụ án có Nguyễn Ngọc C (tên gọi khác: NGUYEN CHAU NGOC, Võ Hải T2; Quốc tịch: Hoa Kỳ). Nguyễn Ngọc C nhập cảnh vào Việt Nam ngày 30/4/2021 qua Cảng hàng không quốc tế T14 bằng Visa ký hiệu DN1 (diện Chuyên gia), có giá trị đến ngày 29/7/2021. C khai nhận để nhập cảnh vào Việt Nam, C nhờ một người tên S làm các hồ sơ, thủ tục về Việt Nam làm việc tại Công ty TNHH T15, nhưng thực tế C không làm việc với công ty này. Nguyễn Ngọc C đã trả phí cho S 3.500 USD. Sau khi nhập cảnh và hoàn thành cách ly, C về nhà cha, mẹ ở thôn L, xã Q, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi hết thời hạn nhập cảnh, C được Công ty TNHH Đ (viết tắt là Công ty Đ) bảo lãnh gia hạn tạm trú đến ngày 21/01/2022, nhưng thực tế C không làm việc cho công ty này. Ngoài ra, cùng với C nhập cảnh vào Việt Nam theo diện “Chuyên gia” (DN1) làm việc cho Công ty T15 còn có người tên PHAM ANH TUAN (Quốc tịch: Hoa Kỳ).

Căn cứ Thông báo số 118/TB-VPCP ngày 21/3/2020 về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về phòng, chống dịch COVID-19 tạm dừng nhập cảnh đối với tất cả người nước ngoài vào Việt Nam, áp dụng từ 00 giờ ngày 22/3/2020. Nhận thấy vụ việc có dấu hiệu tội phạm nên Công an tỉnh N tiến hành điều tra, xác minh. Qua xác minh nguồn tin tội phạm, nhận thấy việc tổ chức cho NGUYEN CHAU NGOC và PHAM ANH TUAN nhập cảnh trái phép vào Việt Nam xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

nên Công an tỉnh N đã chuyển nguồn tin tội phạm đến Công an Thành phố H thụ lý, giải quyết.

Kết quả điều tra xác định: Khoảng tháng 3 - 4/2021, khi làm nghề bán vé máy bay và làm thủ tục xin Visa tại Hoa Kỳ, Đặng Viết Kim S1 được 11 người nước ngoài mang quốc tịch Hoa Kỳ, gồm: ông NGUYEN C2 (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc C; Võ Hải T2); ông PHAM ANH TUAN; bà TRAN NHO CHUTHI; bà TRAN CINDY; ông NGUYEN LONG MARK; bà NGUYEN THUY TRANG VU; ông TRAN DAVID VAN; ông TO VIET HUY; ông DANG STEVE HUU; ông PHAM HIEN THANH và bà NGUYEN THI THUY TRINH

(quốc tịch: Na-uy) lần lượt tự liên hệ hoặc được người khác giới thiệu nhờ S1 tìm giúp dịch vụ làm thủ tục xin Visa nhập cảnh vào Việt Nam để giải quyết việc cá nhân. Những người này phải nhờ S1 vì thời điểm này Việt Nam không giải quyết cho nhập cảnh theo diện “miễn Visa” để du lịch hoặc thăm thân nhân tại Việt Nam. Nếu S1 xin được V2, họ sẽ mua vé máy bay ở phòng vé của S1, S1 sẽ hưởng lợi khoảng 100 USD/vé.

Sau đó, Đặng Viết Kim S1 tìm hiểu, liên hệ với Phan Thị Ngọc D tự xưng là nhân viên của Công ty TNHH H2 nhận làm dịch vụ xin Visa cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam. Khi S1 trao đổi có khách muốn nhập cảnh vào Việt Nam giải quyết việc cá nhân thì D lên mạng Internet tìm kiếm và liên hệ được với nhiều người có làm dịch vụ khác nhau như: Lê Thị Thu T, Ngô Trần Quỳnh C1 làm nghề bán vé máy bay và môi giới dịch vụ xin Visa, cùng một người khác (không nhớ được thông tin liên lạc của người này) và đều được những người này tư vấn có thể làm hồ sơ xin Visa nhập cảnh vào Việt Nam cho số người nước ngoài nói trên theo diện DN1 (chuyên gia, nhà quản lý doanh nghiệp, lao động kỹ thuật cao) nhưng phải có công ty tại Việt Nam bảo lãnh. Chi phí làm thủ tục xin Visa từ 440 - 450 USD/người, bao gồm chi phí xin Công văn của Ủy ban nhândân Thành phố H về hỗ trợ cho người nước ngoài là chuyên gia, nhà quản lý doanhỦy ban nhân dân Thành phố H) và Công văn của Cục Q1 - Bộ C3 về việc đồng ý cho nhận Visa tại cửa khẩu (viết tắt là Công văn đồng ý của Cục Q1).

Sau khi liên hệ và thống nhất chi phí với các bên dịch vụ, Phan Thị Ngọc D thông báo lại cho Đặng Viết Kim S1 biết có thể làm hồ sơ xin Visa cho những người khách của S1 nhập cảnh vào Việt Nam theo diện DN1, nhưng S1 phải tìm được công ty ở Việt Nam ký hồ sơ bảo lãnh cho những người khách nói trên nhập cảnh vào Việt Nam làm việc cho công ty H3, đồng thời S1 phải cung cấp ảnh chụp hộ chiếu của những người này; D sẽ thực hiện các thủ tục còn lại, chi phí làm thủ tục xin Visa là 520 USD/người, nếu khách yêu cầu đặt luôn các dịch vụ cách ly y tế sau khi nhập cảnh như: đưa đón, phòng khách sạn C4, chi phí test Covid 19 trong thời gian cách ly,... sẽ thêm chi phí khoảng 2.220 USD/người.

Sau khi khách đồng ý, S1 báo cho D biết và liên hệ nhờ người quen là Nguyễn Khả T3, Giám đốc Công ty TNHH K1 (viết tắt là Công ty K1) và Đỗ

Quốc V1, sở hữu Công ty Cổ phần T16 (viết tắt là Công ty T16) (do ông Ngô Hữu M làm Giám đốc, V1 là người điều hành công ty V3) để nhờ ký xác nhận hồ sơ bảo lãnh cho khách của S1 nhập cảnh vào Việt Nam theo diện DN1, S1 sẽ trả chi phí dịch vụ thì T3 và V1 đồng ý. Theo đó, Nguyễn Khả T3 ký hồ sơ bảo lãnh cho 02 người là TRAN DAVID VAN và NGUYEN THI THUY TRINH (hồ sơ ghi ngày 05/4/2021) với danh nghĩa DN1 nhập cảnh vào Việt Nam làm việc cho Côngty K1; Đỗ Quốc V1 tự ý giả chữ ký của ông M và lấy dấu của Công ty T16 đóngCông ty T16. Ngoài ra, S1 còn nhờ V1 tìm công ty ký giúp hồ sơ bảo lãnh cho 04 người nước ngoài khác nên V1 liên hệ với Lương Công B, Giám đốc Công ty T15, V1 nói sẽ giới thiệu người nước ngoài vào đầu tư, hợp tácCông ty T15 để thuyết phục B ký khống hồ sơ bảo lãnh cho 02 ngườiCông ty T15. Đồng thời, V1 nói với em họ là Đặng Thanh S2 (hiện đã xuất cảnh) là Giám đốc Công tyTNHH Đ1 (viết tắt là Công ty Đ1) giới thiệu Đặng Viết Kim S1 hợp tác kinh doanh để nhờ Đặng Thanh S2 ký giúp hồ sơ bảo lãnh cho 02 người là NGUYEN LONG MARK, NGUYEN THUY TRANG VU. Đối với 03 trường hợp TO VIET

HUY, DANG STEVE HUU, PHAM HIEN THANH (có 03 thân nhân đi kèm, được giải quyết theo diện đi cùng DN1) do ông Nguyễn Minh Q, Giám đốc Côngty TNHH D3 (viết tắt là Công ty D3) tự ký hồ sơ bảo lãnh (ghi ngày 05/4/2021), do đây là khách của ông Q nhờ S2 tìm giúp dịch vụ làm thủ tục xin Visa nhập cảnh, qua xác minh ông Q đã chết vào ngày 14/9/2021 nên không làm rõ được nội dung liên quan.

Sau khi tìm được các công ty bảo lãnh cho khách, Đặng Viết Kim S1 yêu cầu Đỗ Quốc V1, Nguyễn Khả T3 và ông Nguyễn Minh Q cung cấp ảnh chụp Giấy phép đăng ký kinh doanh của công ty; S1 yêu cầu khách hàng gửi ảnh hộ chiếu cho S1 để gửi cho D. Sau đó, D gửi các tài liệu này cho các bên dịch vụ để soạn thảo thủ tục, cụ thể:

10.000.000 đồng; chuyển trả tiền dịch vụ xin Visa cho Phan Thị Ngọc D qua tài khoản số 0921000715442, mở tại T17, mang tên PHAN THI THU THO, là tài khoản mà Công ty H2 dùng để giao dịch với đối tác khi còn hoạt động, trong đó: có 07 khách bao luôn chi phí cách ly y tế là 2.220 USD x 7 = 15.540 USD, tương đương 359.906.400 đồng (theo tỉ giá quy đổi mà các bị can thỏa thuận với nhau là 01 USD = 23.160 đồng) và 04 khách chỉ làm thủ tục xin Visa là 520 USD x 4

= 2.080 USD, tương đương 48.172.800 đồng. Riêng S1 chỉ hưởng lợi được khoảng 100 USD/người khi bán được vé máy bay cho 14 người (trong đó có 11 người diện DN1 và 03 người thân đi kèm), tổng cộng là 1.400 USD, tương đương

32.424.000 đồng;

98.032.000 đồng.

Kết quả ghi lời khai người làm chứng, người có liên quan:

Kết quả xác minh các tài khoản ngân hàng; kiểm tra, thu giữ dữ liệu điện tử; kết quả nhận dạng, đối chất, xác minh người đại diện hợp pháp của các công ty ký hồ sơ bảo lãnh phù hợp với lời khai của các bị can và các đối tượng liên quan trong vụ án.

Đối với Phan Thị Thu T8: Là quản lý của Công ty TNHH H2 nhưng thời điểm bị can Phan Thị Ngọc D và Hồ Thanh S3 thực hiện hành vi “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép” công ty đã dừng hoạt động. D có mượn tài khoản

của công ty do T8 đứng tên để nhận, chuyển tiền liên quan đến hành vi phạm tội, T8 không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của D, S3. Do đó, không có căn cứ xử lý hình sự đối với T8.

Đối với Nguyễn Thị Minh T4: Có hành vi giả chữ ký của Hồ Thanh S3 để ký lên các tài liệu bảo lãnh cho 04 người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam theo diện DN1. Tuy nhiên, kết quả điều tra xác định T4 chỉ làm công tác văn thư, lưu trữ, tại công ty. Khi S3 yêu cầu ký thay cho S3 thì T4 thực hiện, không biết nội dung các tài liệu. Vì vậy, không có căn cứ xử lý hình sự đối với T4.

Đối với Ngô Hữu M: Mới được Đỗ Quốc V1 nhờ đứng tên Giám đốc côngty T16, M không tham gia làm việc hay điều hành công ty, không được V1 nhờ ký bất kỳ hồ sơ, thủ tục gì, con dấu của công ty D5 quản lý, sử dụng. Do đó, không có căn cứ để xử lý hình sự đối với M.

Đối với Đặng Thanh S2: Do V1 khai nhờ S2 ký khống hồ sơ bảo lãnh cho 02 người gồm: NGUYEN LONG MARK và NGUYEN THUY TRANG VU nhập

cảnh vào Việt Nam theo diện DN1. Tuy nhiên, căn cứ kết quả giám định không có căn cứ xác định các chữ ký trên hồ sơ bảo lãnh có phải do S2 ký ra hay không. Hiện S2 đã xuất cảnh nên không làm rõ các hành vi liên quan. Do đó, chưa có cơ sở khẳng định S2 có đồng phạm với các bị can trong vụ án hay không. Ngày 20/6/2023, Cơ quan An ninh điều tra, Công an Thành phố H ra Quyết định tách hành vi của Đặng Thanh S2, tiếp tục xác minh, làm rõ, nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với ông Nguyễn Minh Q: Giám đốc Công ty D3, có hành vi ký hồ sơ bảo lãnh cho 03 người nước ngoài nhập cảnh trái phép vào Việt Nam theo diện DN1. Tuy nhiên, do ông Q đã chết nên không xem xét, xử lý trong vụ án này.

Đối với người đàn ông tên T5 (hoặc D2) được Lê Thị Thu T thuê làm giả các loại giấy tờ xác nhận trình độ, tay nghề cho người nước ngoài và người làm dịch vụ xin Visa mà Phan Thị Ngọc D đã thuê. Quá trình điều tra, do T, D không cung cấp được thông tin liên lạc, nhân thân, lai lịch nên Cơ quan An ninh điều tra không có căn cứ xác minh, triệu tập, làm rõ để xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 596/2023/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2023 của tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

  1. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm n, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

    Xử phạt bị cáo Phan Thị Ngọc D 05 (năm) năm tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”;

    Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

  2. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 348; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

    Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu T 05 (năm) năm tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”;

    Căn cứ điểm b, c khoản 3 Điều 341; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

    Xử phạt bị cáo Lê Thị Thu T 02 (hai) năm tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”;

    Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

    Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

  3. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 348; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đỗ Quốc V1 03 (ba) năm tù về tội “Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép”;

Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 341; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Đỗ Quốc V1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”;

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 04 (bốn) năm 06 (sáu)

tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm,

  • Ngày 27 và 29/12/2023, bị cáo Lê Thị Thu T và bị cáo Đỗ Quốc V1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

  • Ngày 27/12/2023, bị cáo Phan Thị Ngọc D có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo;

Tai phiên tòa, bị cáo Lê Thị Thu T13 và bị cáo Đỗ Quốc V1 xin rút lại yêu cầu kháng cáo; bị cáo Phan Thị Ngọc D có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: xét thấy tại phiên tòa hôm nay, bị cáo T và bị cáo V1 xin rút kháng cáo; việc rút kháng cáo của các bị cáo là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của 2 bị cáo. Đối với kháng cáo của bị cáo Phan Thị Ngọc D, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án

treo nhưng không thuộc trường hợp được hưởng án treo theo quy định nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Luật sư Nguyễn Hoài N bào chữa cho bị cáo Phan Thị Ngọc D trình bày: Về nội dung vụ án và về tội danh luật sư xin không tranh luận, đồng ý với nội dung Bản án sơ thẩm. Bị cáo D đang nuôi con nhỏ, bị bệnh trầm cảm sau khi bị xét xử, ông nội của bị cáo là liệt sĩ, tình tiết này là tình tiết mới sau khi xét xử sơ thẩm. Bị cáo phạm tội với vai trò giúp sức không đáng kể, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm cho bị cáo còn 3 năm tù và cho bị cáo được hưởng án treo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát đối đáp: Bị cáo D bị truy tố theo điểm a Khoản 3, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 5 năm tù là dưới khung hình phạt, thể hiện đúng tính chất mức độ hành vi của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, ý kiến tranh luận của Luật sư bào chữa cho bị cáo; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Đơn kháng cáo của các bị cáo Phan Thị Ngọc D, Lê Thị Thu T và Đỗ Quốc V1 còn trong hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm quy định tại Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

  2. Tại phiên tòa, bị cáo Phan Thị Ngọc D có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định.

  3. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Thị Thu T và bị cáo Đỗ Quốc V1 xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Xét việc rút kháng cáo của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo của các bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Lê Thị Thu T và bị cáo Đỗ Quốc V1.

  4. Về hành vi phạm tội: bị cáo Phan Thị Ngọc D cùng nhiều bị cáo khác đã có hành vi làm hồ sơ khống xác nhận nhiều người nước ngoài thuộc diện DN1 để tổ chức cho những người này nhập cảnh vào Việt Nam trái phép, trong thời điểm Thủ tướng Chính phủ đã Kết luận tại cuộc họp Thường trực Chính phủ ngày 21/3/2020 về việc tạm dừng nhập cảnh đối với tất cả người nước ngoài vào Việt Nam, áp dụng từ 00 giờ ngày 22/3/2020 để phòng, chống dịch COVID-19. Quá trình tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép, bị cáo Phan Thị Ngọc D đã tổ chức cho 21 người nhập cảnh trái phép thu lợi được 112.000.000 đồng;

    Hành vi của bị cáo Phan Thị Ngọc D đã phạm vào tội “Tổ chức cho người, thuộc trường hợp “Đối với 11 người trở lên”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 348 Bộ luật Hình sự

    năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

  5. Xét kháng cáo của bị cáo Phan Thị Ngọc D

Hành vi của bị cáo Phan Thị Ngọc D là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh và lưu trú trên lãnh thổ Việt Nam, cần phải được xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị can và răn đe, phòng ngừa chung.

Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và tích cực hợp tác với cơ quan An ninh điều tra, có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án. Ngoài ra, bị cáo là phụ nữ có thai và đã nộp lại 112.000.000 đồng là số tiền thu lợi bất chính nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ các tình tiết giảm nhẹ, áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xét xử bị cáo 05 (năm) năm tù là dưới mức thấp nhất khung hình phạt. Bị cáo kháng cáo nhưng xét thấy hình phạt của bị cáo Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử đã ở mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề; do đó, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo của bị cáo D là không đủ điều kiện theo quy định tại điều 54 và điều 65 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

  1. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp, có căn cứ nên được chấp nhận.

  2. Ý kiến bào chữa của Luật sư đề nghị giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo D được hưởng án treo là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

  3. Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo D phải chịu án phí theo quy định. Bị cáo T và bị cáo V1 rút kháng cáo tại phiên tòa nên không phải chịu án phí.

  4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 348; điểm a khoản 1 điều 355, Điều 356 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

  1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Thu T và bị cáo Đỗ Quốc V1; Bản án hình sự sơ thẩm số 597/2023/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm

    2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực thi hành đối với bị cáo Lê Thị Thu T và bị cáo Đỗ Quốc V1.

  2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Thị Ngọc D; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 597/2023/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Phan Thị Ngọc D.

    Tuyên xử:

    Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 348; điểm n, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

    Xử phạt bị cáo Phan Thị Ngọc D 05 (năm) năm tù về tội “Tổ chức cho;

    Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

  3. Về án phí hình sự phúc thẩm:

    • Các bị cáo Lê Thị Thu T và Đỗ Quốc V1 không phải chịu.

    • Bị cáo Phan Thị Ngọc D phải chịu 200.000 đồng.

  4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG

Nguyễn Thị Thúy Hòa Trần Văn Đạt

THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Lê Văn An

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 401/2024/HS-PT ngày 28/05/2024 của TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh

  • Số bản án: 401/2024/HS-PT
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 28/05/2024
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP Hồ Chí Minh
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Đặng Viết Kim S và các bị cáo khác đã tổ chức cho người nước ngoài nhập cảnh vào VN trong thười gian dịch covid 19
Tải về bản án