Hệ thống pháp luật

bản án hình sự

"bản án hình sự" được hiểu như sau:

Văn bản ghi nhận phán quyết của Tòa án sau khi xét xử một vụ án hình sự.Theo quy định tại các điều 222, 223 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bản án hình sự phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Chỉ có các thành viên của hội đồng xét xử mới có quyền thảo luận và thông qua bản án. Chủ tọa phiên tòa là người viết bản án. Cơ cấu chung của bản án gồm ba phần: 1) Phần mở đầu của bản án ghi rõ: giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm phiên tòa; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; họ tên của kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội và tiền án của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và những đại diện hợp pháp của họ. 2) Phần nội dung của bản án phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không phạm tội và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và biện pháp xử lý (hình phạt áp dụng, bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí…). Nếu bị cáo không phạm tội thì bản án phải ghi rõ căn cứ xác định bị cáo vô tội như: không có sự việc phạm tội, hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm… và phải giải quyết khôi phục danh dự, quyền lợi, nghĩa vụ cho họ. 3) Phần cuối cùng của bản án ghi những quyết định của tòa án và quyền kháng cáo đối với bản án.Đối với bản án phúc thẩm, phần đầu bản án giống như các quy định trong bản án sơ thẩm, phần nội dung phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị và các căn cứ để đưa ra quyết định. Phần cuối cùng của bản án phúc thẩm ghi những quyết định của tòa án. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngày kể từ khi tuyên án.Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Sau khi bản án đã được thông qua, các thành viên của Hội đồng xét xử phải ký vào bản án.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bản án hình sự được quy định tại Điều 259 và Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.