Hệ thống pháp luật

Áp dụng biện pháp tạm giam khi nào? Tạm giam có phải đi tù nữa không?

Ngày gửi: 11/05/2020 lúc 11:31:12

Mã số: HTPL42083

Câu hỏi:

Em trai tôi có ra tự thú về tội trộm cắp tài sản theo điều 138 BLHS, và hiện nay bị cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ tôi xin hỏi khi bị tạm giữ em trai tôi được đảm bảo những quyền lợi gì theo quy đinh của   pháp luật? Tôi xin cảm ơn.

Câu trả lời tham khảo:

Hệ thống pháp luật Việt Nam (hethongphapluat.com) xin chân thành cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đến chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi xin đưa ra câu trả lời có tính chất tham khảo như sau:

Điều 48. Người bị tạm giữ

1. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.

2. Người bị tạm giữ có quyền:

a) Được biết lý do mình bị tạm giữ;

b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;

c) Trình bày lời khai;

d) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;

đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;

e) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.

 Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 024.6294.9155

Tạm giam là biện pháp nhằm đảm bảo thuận lợi cho quá trình điều tra của cơ quan đều tra cũng như đảm bảo quyền và lợi ích của những người liên quan.

Mặc dù bị tạm giữ nhưng em trai anh vẫn sẽ được đảm bảo những quyền lợi sau:

Được biết lý do mình bị tạm giữ; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật

1. Tạm giam và chế độ tạm giam, tạm giữ

Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp nào? Chế độ tạm giam, tạm giữ được pháp luật quy định như thế nào?

1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:

a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;

b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:

a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;

b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.

4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết.

Điều 89. Chế độ tạm giữ, tạm giam

Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.

Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

2. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam khi nào?

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003)

a) Khái niệm

   Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

b) Đối tượng bắt để tạm giam

* Đối tượng bắt để tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự (Đ49  BLTTHS năm 2003). Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (Đ50 BLTTHS năm 2003). Những người không phải là bị can, bị cáo không áp dụng biện pháp tạm giam.

* Áp dụng bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 303 BLTTHS năm 2003 thì việc bắt tạm giam người chưa thành niên được quy định như sau:

 – Người đủ từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giam nếu bị bắt trong trường hợp trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú hoặc đang bị truy nã nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

  –  Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giam nếu bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú, hoặc đang bị truy nã nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

3. Vấn đề tạm giam trong tố tụng hình sự

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự đã quy định hình phạt tù trên một năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”

Thẩm quyền ra lệnh tạm giam:

Căn cứ Điều 80 BLTTHS 2003 thì những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giam bao gồm:

-Viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự các cấp.

-Chánh án, Phó chánh án tòa án nhân dân và Tòa án cấp quân sự các cấp.

-Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;

-Thủ trưởng, Phó thủ trương Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Về Các trường hợp áp dụng tạm giam:

Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 thì:

“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:

a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;

b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.”

Bên cạnh các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam, pháp luật quy định các trường hợp không áp dụng biện pháp tạm giam. Cụ thể:

Theo khoản 2 Điều 88 BLTTHS 2003:

“ Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:

a.Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;

b.Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tụcphạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

c.Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứcho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.”

Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định 3 trường hợp dù bị can, bị cáo là người đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi thì vẫn áp dụng biện pháp tạm giam:

Thứ nhất, Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Thứ hai, Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;

Thứ ba, Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Về việc hủy bỏ biện pháp tạm giam:

Trong quá trình tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị giam hoặc xét thấy cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Ngoài ra, khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Về thủ tục tạm giam: Tuân thủ theo Khoản 4 Điều 88 BLTTHS 2003:

“Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”

Mặt khác, trong mọi thủ tục tam giam phải đảm bảo các yêu cầu pháp lý sau:

-Lệnh tạm giam phải là lệnh viết, người cấm tình trạng tạm giam bằng lệnh miệng.

-Trong lệnh tạm giam của người có thẩm quyền phải ghi rõ ràng các thông tin: ngày, tháng, năm, chức vụ của người ra lệnh để họ chịu trách nhiệm về mặt pháp lý. Đồng thời phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, thời hạn tạm giam và phải giao cho người bị tạm giam một bản để họ xem xét và thấy rõ ràng việc mình bị tạm giam là hoàn toàn đúng pháp luật hay chưa đúng pháp luật.

4. Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam

Bộ luật Tố tụng hình sự không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam (BPNC) mà chỉ quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung. Điều 79 quy định:“Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.

Trong số các căn cứ trên: căn cứ “kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho trường hợp bị bắt quả tang theo khoản 1 Điều 82 hoặc bắt người trong người trong trường hợp khẩn cấp như ở điểm a khoản 1 Điều 81 nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để tội phạm xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng cho đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trong quá khứ. Như vậy có các căn cứ sau:

Căn cứ thứ nhất: khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hành vi gây khó khăn cho hoạt động điểu tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội có thể bỏ trốn, tiêu hủy, làm giả hoặc thay đổi chứng cứ, xóa các dấu vết của vụ án, mua chuộc, dụ dỗ, lừa phỉnh, khống chế người làm chứng, người bị hại… dẫn đến gây khó khăn cho việc xác định, làm rõ sự thật khác quan vụ án.

Căn cứ thứ hai: khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Để nhận định bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm. Về các yếu tố phản ánh về nhân thân của bị can, bị cáo như: là những phần tử xấu, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, là những tội phạm có tính chất chuyên nghiệp … căn cứ này còn được thể hiện qua hành vi của bị can, bị cáo như đe dọa trả thù người làm chứng, người bị hại, và sự đe dọa đó có khả năng trở thành hiện thực.

Căn cứ thứ 3: để bảo đảm thi hành án Công tác thi hành án thực sự là vấn đề quan trọng. Khi cần đảm bảo thi hành án, tùy theo tính chất của từng vụ án và nhân thân người bị kết án, Tòa án có thể áp dụng BPNC thích hợp, trong đó có BPNC tạm giam để đảm bảo cho việc thi hành án.

5. Tạm giữ, tạm giam người đồng tính theo quy định mới

Tạm giữ, tạm giam người đồng tính theo quy định mới. Người đồng tính, người chuyển giới có thể được tạm giữ, tạm giam ở buồng riêng.

Trên đây là câu trả lời của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam liên quan đến yêu cầu câu hỏi của bạn. Hy vọng câu trả lời của chúng tôi sẽ hữu ích cho bạn.

Nếu có bất cứ vướng mắc gì về pháp lý mời bạn tiếp tục đặt câu hỏi. Chúng tôi luôn sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng cảm ơn.

BBT.Hệ Thống Pháp Luật Việt nam

Lưu ý: Nội dung tư vấn của Hệ Thống Pháp Luật Việt Nam trên đây chỉ mang tính tham khảo. Tùy vào từng thời điểm và đối tượng khác nhau mà nội dung tư vấn trên có thể sẽ không còn phù hợp do sự thay đổi của chính sách hay quy định mới của pháp luật.

Gửi yêu cầu tư vấn

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM