án treo
"án treo" được hiểu như sau:
Biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.Án treo được áp dụng đối với người bị xử phạt tù với mức không quá 3 năm trong những trường hợp tòa án căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không cần phải buộc họ chấp hành hình phạt tù.Khi cho người phạm tội được hưởng án treo, tòa án ấn định thời gian thử thách từ 1 năm đến 5 năm. Đây là thời gian người bị án treo được giao cho cơ quan hoặc tổ chức nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi giáo dục. Thời gian thử thách là ràng buộc pháp lý đối với người bị kết án và để cơ quan có trách nhiệm kiểm tra kết quả tự cải tạo của người này. Thời gian thử thách không được ngắn hơn thời hạn của hình phạt tù đã tuyên và trong thực tế thường là dài hơn. Để khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, luật hình sự cho phép tòa án được rút ngắn thời gian thử thách sau khi họ đã chấp hành được một nửa thời gian đó trên cơ sở đề nghị của cơ quan, tổ chức đang giám sát, giáo dục người bị án treo.Người được hưởng án treo không được miễn mà buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên nếu trong thời gian thử thách lại phạm tội mới. Trong trường hợp này, tòa án tổng hợp hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo và hình phạt mới tuyên theo quy định của luật hình sự về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.Việc quy định án treo trong luật hình sự Việt Nam là sự thể hiện nguyên tắc “Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “ Trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo". Án treo có tác dụng tạo điều kiện, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo trong môi trường không bị cách ly khỏi xã hội dưới sự giám sát của cơ quan hoặc tổ chức. Do có tính tích cực như vậy nên án treo được quy định trong luật hình sự của nhiều nước. Ở Việt Nam, án treo được quy định ngay từ những năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân và tồn tại cho đến ngày nay. Trong quá trình đó, các quy định về án treo cũng đã có sự thay đổi để ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu của đấu tranh phòng chống tội phạm. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về án treo là sắc lệnh số 21 năm 1946. Trước khi có Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985), án treo có thời gian được coi là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù trong hệ thống hình phạt. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015, án treo đều được xác định là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều kiện cho hưởng án treo cũng như điều kiện thử thách theo Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 chặt chẽ hơn so với Bộ luật hình sự năm 1985 (mức phạt tù tối đa từ 5 năm rút xuống còn 3 năm; điều kiện không phạm tội mới thay thế cho điều kiện không phạm tội mới do cố ý hoặc không phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù). Việc quy định các điều kiện cho hưởng án treo chặt chẽ hơn nhằm hạn chế sự lạm dụng của người áp dụng luật. Điều kiện thử thách khi được hưởng án treo theo quy định tại Khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 quy định chặt chẽ hơn so với Bộ luật hình sự 1999.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, buộc chấp hành hình phạt tù trong thời gian hưởng án treo được quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành 27 tháng 11 năm 2015:“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.”.