án sát
"án sát" được hiểu như sau:
Chức quan cai trị cấp tỉnh ở Việt Nam thời xưa, được lập trong cải cách hành chính do Minh Mạng - ông vua thứ hai triều Nguyễn tiến hành.Sau khi Gia Long - vua đầu triều Nguyễn đánh đổ được triều Tây Sơn, thâu tóm cả nước Việt Nam về một mối, đã lập ra một triều đại mới - triều Nguyễn và bắt tay vào xây dựng một bộ máy quan lại để cai trị cả nước.Để tránh việc gây xáo trộn quá nhiều các cấp bậc hành chính và các cấp bậc quan lại, Gia Long đã duy trì cơ chế phân chia địa giới hành chính và các cấp bậc hành chính như sau: dưới trung ương vừa có Thành, Trấn và Doanh, cả nước có hai thành là Bắc thành gồm 11 trấn từ Ninh Bình trở ra và Gia Định thành từ bên kia Bình Thuận trở vào gồm 5 trấn. Đứng đầu mỗi Thành là một tổng trấn quyền hành rất lớn, gần như Phó vương. Quãng giữa từ Thanh Hóa trở vào đến Bình Thuận không lập Thành mà lập các Trấn trực thuộc triều đình, còn ở chính giữa kinh kỳ lại lập 4 Doanh trực lệ. Phân cấp hành chính như vậy rất phức tạp, nhiều tầng nấc, dễ sinh lạm quyền và có nguy cơ tiếm vị. Minh Mạng lên ngôi, từ năm thứ 12, trong 3 năm (1831 - 1833) đã tiến hành cải cách, phân chia lại đơn vị và cấp hành chính, cả nước, dưới trung ương, có 30 tỉnh. Trong 30 tỉnh lại phân định rõ 11 tỉnh lớn, 11 tỉnh vừa và 8 tỉnh nhỏ. Ở nước ta, đơn vị hành chính cấp dưới trung ương là tỉnh ra đời từ đó và duy trì mãi về sau này.Án sát là chức quan đứng ở vị trí thứ ba trong ba chức quan đầu tỉnh, ở dưới Tổng đốc (tỉnh lớn) hoặc Tuần phủ (tỉnh nhỏ) và Bố chánh. Án sát phụ trách việc xử án, chủ yếu là về hình sự.Thời vua Tự Đức, án sát được coi như tỉnh phó của tỉnh nhỏ. Thời Pháp thuộc, chức quan này đã bị bãi bỏ ở Nam Kỳ vì là xứ thuộc địa, nhưng vẫn được duy trì ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.Trước đó, thời nhà Lê, án sát là một chức quan được vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức năm thứ hai (1471) lập tại thừa tuyên thứ 12 ở vùng đất mới - Quảng Nam.