sắc lệnh số 85 ngày 22.5.1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng
"sắc lệnh số 85 ngày 22.5.1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng" được hiểu như sau:
Sắc lệnh quy định các biện pháp cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng đáp ứng những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới được Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ký ban hành ngày 22.5.1950.Cải cách tư pháp và luật tố tụng để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới của cách mạng, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân là một trong những yêu cầu và đòi hỏi bức xúc mà lịch sử đặt ra đối với Nhà nước và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trước đây, khi mới giành được độc lập, do Nhà nước và nhân dân đang tập trung nhân tài, vật lực để phục vụ cho cuộc kháng chiến kiến quốc. Lúc này chúng ta đang phải đối mặt với những nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp, nên về hình thức, Nhà nước ta vẫn phải tiếp thu và kế thừa những quy tắc và nguyên tắc cơ bản của bộ máy tư pháp và luật tố tụng của chế độ cũ để áp dụng trong hoạt động tư pháp và hoạt động tố tụng. Có thể nói đây là sự vận dụng sáng tạo của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp và tố tụng. Sự vận dụng linh hoạt và sáng suốt này trong thời kỳ quá độ khi chúng ta chưa thiết lập được một nền tư pháp ổn định và pháp luật về tố tụng thống nhất đã giải quyết được không ít nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra đối với việc giữ gìn trật tự xã hội, góp phần không nhỏ vào công cuộc cách mạng của dân tộc. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể kế thừa mãi những nguyên tắc và thủ tục tố tụng, cũng như những quan niệm về hệ thống tư pháp đã lỗi thời đó trong chính quyền dân chủ nhân dân, khi mà về chất các hoạt động tư pháp và tố tụng cũng như yêu cầu của công cuộc cách mạng đã hoàn toàn thay đổi. Thế và lực cũng như những điều kiện khác lúc này đã có thể cho phép Nhà nước từng bước thiết lập nền tư pháp và quan hệ tố tụng theo cách riêng của mình, phù hợp với mô hình và cách thức quản lý nhà nước dân chủ nhân dân, đặt nền tảng cho việc xây dựng một hệ thống tư pháp và luật tố tụng vững chắc, bảo đảm hoàn thành mọi sứ mạng do lịch sử đặt ra và phục vụ nhân dân, của dân, do dân, vì dân.Xuất phát từ yêu cầu đó, sắc lệnh số 85/SL đã ra đời. Sắc lệnh gồm 4 chương và 20 điều.Chương I gồm 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6) quy định về tổ chức. Theo các quy định này, Tòa án sơ cấp được đổi tên thành Tòa án nhân dân huyện, Tòa án đệ nhị cấp được đổi tên thành Tòa án nhân dân tỉnh, Hội đồng phúc án được đổi tên thành Tòa phúc thẩm, phụ thẩm nhân dân được đổi tên thành hội thẩm nhân dân. Cơ cấu Hội đồng xét xử khi xử việc hình, việc hộ của Tòa án nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm nhân dân, Tòa phúc thẩm gồm 2 thẩm phán và 3 hội thẩm nhân dân. Chương I cũng quy định các vấn đề về quyền hạn, chế độ lương bổng, phụ cấp và nhiệm kỳ làm việc cũng như chế độ bầu cử và cơ cấu của hội thẩm nhân dân từ cấp xã đến cấp liên khu...Chương II gồm có 2 điều (Điều 7 và Điều 8) quy định về ban tư pháp xã. Theo các quy định này, ban tư pháp xã có quyền xử chung thẩm và sơ thẩm đối với một số hành vi vi phạm và tranh chấp nhỏ trong nhân dân.Chương III gồm 6 điều (từ Điều 9 đến Điều 14) quy định về tòa án nhân dân huyện, đề cập các vấn đề về việc hòa giải các vụ kiện về dân sự, thương sự, các thủ tục liên quan đến chức năng, thẩm quyền, thủ tục hòa giải; thẩm quyền xử chung thẩm của Tòa án huyện với những vụ sơ thẩm của ban tư pháp xã bị kháng cáo...Chương IV gồm 6 điều (từ Điều 15 đến Điều 20) quy định về tố tụng.Có thể nói, so với các văn bản pháp luật trước đây, Sắc lệnh số 85 đã có những quy định mới mẻ về thủ tục tố tụng nhằm bảo đảm tính khách quan, dân chủ, công bằng trong xét xử, bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân. Cụ thể, sắc lệnh quy định quyền kháng cáo về việc hộ cũng như việc hình của công tố viên, việc Tòa án có thể xem xét lại thủ tục tố tụng trong các vụ án về hình hoặc hộ có hại cho việc thẩm cứu hoặc quyền lợi của đương sự; việc xem xét tính khách quan cũng như những chế tài của Tòa án đối với việc kháng cáo đối với bị đơn và nguyên đơn...