Hệ thống pháp luật

quyền tác giả trong tư pháp quốc tế

"quyền tác giả trong tư pháp quốc tế" được hiểu như sau:

Quyền tác giả được hiểu là quyền tài sản và nhân thân (phi tài sản) của tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học.Khác với quyền sở hữu theo pháp luật dân sự, quyền tác giả phụ thuộc vào quốc tịch của tác giả, hay nói cách khác quyền tác giả phát sinh trên cơ sở pháp luật của một quốc gia nhất định. Vì vậy, để tránh việc khai thác và sử dụng các giá trị của tác phẩm, công trình khoa học của tác giả là công dân nước này trên lãnh thổ nước khác mà không được sự đồng ý của tác giả đó, giữa các quốc gia ký kết hoặc thỏa  thuận với nhau việc bảo hộ quyền tác giả của công dân nước sở tại ở nước ngoài và công dân nước ngoài ở nước sở tại. Thuật ngữ "quyền tác giả trong tư pháp quốc tế” ra đời từ thực tiễn đó của đời sống quốc tế.Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, giữa các quốc gia đã có nhiều cố gắng thiết lập hệ thống pháp luật nhằm bảo hộ quyền tác giả. Vì vậy, đã có nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương ra đời rất sớm và được nhiều quốc gia tham gia ký kết, chẳng hạn, Công Ước Becnơ (Berne, năm 1886); Công ước Giơnevơ (năm 1952). Ngoài các Hiệp định song phương về bảo hộ quyền tác giả, Việt Nam đã tham gia ký kết Công ước Giơnevơ, Công ước Becnơ. Hiện nay trên thế giới, việc bảo hộ quyền tác giả của các quốc gia được thể hiện dưới các hình thức: tham gia ký kết điều ước đa phương, ký kết điều ước song phương, theo nguyên tắc có đi có lại giữa các quốc gia với nhau.Bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam được quy định tại Bộ luật dân sự năm 1995 và tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó, tác giả là người Việt Nam có tác phẩm, công trình công bố hoặc sử dụng lần đầu tiên ở nước ngoài thì được hưởng quyền tác giả theo pháp luật nước đó. Tác giả là người nước ngoài có tác phẩm, công trình khoa học được công bố hoặc sử dụng lần đầu tiên tại Việt Nam thì được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam hoặc theo điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết.