Hệ thống pháp luật

quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế

"quyền sở hữu công nghiệp trong tư pháp quốc tế" được hiểu như sau:

Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân nước ngoài đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, quyền sử dụng đối với tên gọi, xuất xứ hàng hóa và quyền sở hữu đối với các đối tượng khác do pháp luật quy định.So với quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp mang tính chất lãnh thổ triệt để hơn. Nếu quyền tác giả về tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học chỉ xuất hiện với điều kiện là đã xuất hiện tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì quyền sở hữu công nghiệp chỉ xuất hiện sau khi được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia cấp văn bằng bảo hộ. Văn bằng bảo hộ chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia cấp văn bằng. Do đó, để được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở một quốc gia nào cần phải nộp đơn xin cấp văn bằng tại quốc gia đó.Việc công nhận và cấp văn bằng bảo hộ đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật mỗi nước và các điều ước quốc tế có liên quan.Quyền sở hữu công nghiệp của người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp văn bằng bảo hộ thì được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam. Cá nhân, pháp nhân nước ngoài thuộc các trường hợp sau đây có quyền yêu cầu bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của mình tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và được hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ như đối với chủ thể Việt Nam: 1) Cá nhân, pháp nhân được hưởng quyền theo Công ước Pari 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp: 2) Cá nhân hoặc pháp nhân thuộc các nước cùng kí với Việt Nam thỏa  thuận bảo hộ lẫn nhau về sở hữu công nghiệp hoặc cùng Việt Nam chấp nhận nguyên tắc có đi có lại trong việc bảo hộ sở hữu công nghiệp cho công dân, pháp nhân của nhau.Công dân, pháp nhân thuộc các nước thành viên của Thỏa  ước Mađrit được hưởng mọi quyền và chịu mọi nghĩa vụ liên quan nếu nhãn hiệu hàng hóa được đăng ký quốc tế, trong đó có chỉ định Việt Nam và không bị Việt Nam từ chối. Công dân, pháp nhân thuộc các nước thành viên của Hiệp ước PCT có thể nộp đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích tại Việt Nam theo Hiệp ước đó và theo thủ tục do Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ quy định.Trong trường hợp Điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với các quy định của pháp luật trong nước thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.