phát hành tiền
"phát hành tiền" được hiểu như sau:
Cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán.Kho phát hành tiền của quốc gia để cung ứng cho lưu thông được hình thành từ hai nguồn: nguồn tiền mới in và nguồn tiền thu từ lưu thông về để thực hiện chính sách điều hòa lưu thông tiền tệ. Việc cung ứng tiền vào lưu thông vượt quá yêu cầu của lưu thông tiền tệ gọi là lạm phát. Cơ quan được nhà nước giao cho nhiệm vụ phát hành tiền có trách nhiệm tính toán lượng tiền cần cho lưu thông trong từng thời kỳ.Ở Việt Nam, sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do chưa có điều kiện thành lập Ngân hàng trung ương để phát hành tiền nên Nhà nước giao cho Bộ Tài chính phát hành đồng tiền của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đồng tiền này thường được gọi là "bạc tài chính". Từ khi thành lập Ngân hàng nhà nước Việt Nam (năm 1951), việc phát hành tiền do Ngân hàng nhà nước thực hiện. Điều 23 Luật ngân hàng nhà nước năm 1997 quy định, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm tiền giấy và tiền kim loại. Tiền giấy và tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành được dùng làm phương tiện thanh toán không hạn chế trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước quản lý tiền dự trữ phát hành theo quy định của Chính phủ, bảo đảm cung ứng đủ số lượng và cơ cấu tiền giấy, tiền kim loại cho nền kinh tế. Theo quy định của Luật Ngân hàng nhà nước, tiền phát hành vào lưu thông là tài sản “nợ” đối với nền kinh tế và được cân đối bằng tài sản "có" của Ngân hàng Nhà nước.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, phát hành tiền được quy định tại Mục 2 Chương III Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 16 tháng 06 năm 2010.