Hệ thống pháp luật

luật khoa học và công nghệ năm 2001

"luật khoa học và công nghệ năm 2001" được hiểu như sau:

Đạo luật chứa đựng hệ thống các quy phạm pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ pháp lý liên quan tới hoạt động khoa học và công nghệ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09.6.2000 và có hiệu lực kể từ ngày 01.01.2001.Mục đích của việc ban hành Luật khoa học và công nghệ là để phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ; xây dựng nền khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng con người mới Việt Nam; góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh.Phạm vi điều chỉnh của Luật khoa học và công nghệ là tổ chức khoa học và công nghệ; tổ chức thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ.Về bố cục, Luật khoa học và công nghệ năm 2000 gồm lời nói đầu, 8 chương với 59 điều, gồm những nội dung cơ bản sau: những quy định chung; tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; hoạt động khoa học và công nghệ; các biện pháp bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ; hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ; khen thưởng và xử lý vi phạm; điều khoản thi hành.Công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đòi hỏi toàn xã hội làm chủ sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ. Khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng một nền kinh tế thị trường với sự quản lý của Nhà nước thì cũng có nghĩa là khoa học và công nghệ phải chuyển biến tương ứng, phải thích nghi với môi trường kinh tế - xã hội đã thay đổi. Trên thực tế, quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường trong lĩnh vực khoa học và công nghệ đã diễn ra từng bước trong suốt thập kỷ 80 và đầu những năm 90 thế kỷ XX. Song căn cứ pháp lý của nó chỉ được ghi nhận trong các văn bản pháp quy hầu hết dưới luật, như: Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1989, Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam năm 1988, Pháp lệnh đo lường năm 1990, Pháp lệnh chất lượng hàng hóa năm 1991 và các nghị định của Chính phủ. Theo phương châm vừa làm vừa rút kinh nghiệm, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong giai đoạn này đã hình thành nhưng chưa đồng bộ và chưa cụ thể để chỉ đạo hành động trong thực tiễn. Chính vì vậy, sự ra đời của Luật khoa học và công nghệ năm 2000 cụ thể hóa tinh thần về khoa học và công nghệ của Hiến pháp năm 1992 là một đòi hỏi khách quan.