Hệ thống pháp luật

kháng nghị trong tố tụng hình sự

"kháng nghị trong tố tụng hình sự" được hiểu như sau:

(Việc Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp) yêu cầu Toà án xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm, xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.Kháng nghị trong tố tụng hình sự bao gồm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.Đối với kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì chỉ có Viện kiểm sát cùng cấp, cùng lãnh thổ với Toà án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát này mới có quyền kháng nghị những bản án, quyết định sơ thẩm.Đối với thủ tục giám đốc thẩm, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án của Tòa án các cấp; Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới; Chánh án Toà án quân sự trung Ương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án quân sự cấp dưới; Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.Đối với thủ tục tái thẩm thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân hoặc Toà án quân sự các cấp. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự các cấp nhưng có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Toà án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.Thực hiện quyền kháng nghị, người có thẩm quyền kháng nghị có thể kháng nghị toàn bộ hay một phần bản án, quyết định; kháng nghị đối với tất cả các bị cáo và người tham gia tố tụng hay chỉ với một số người để yêu cầu Toà án có thẩm quyền xét lại.Việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của những người có thẩm quyền phải được thực hiện trong thời hạn kháng nghị và theo đúng thủ tục do luật quy định thì mới được coi là hợp lệ. Khi có kháng nghị hợp lệ, Tòa án có thẩm quyền phải mở phiên tòa để xét lại bản án hoặc quyết định bị kháng nghị (Xt. Thời hạn kháng nghị).Quy định về kháng nghị trong luật tố tụng hình sự bảo đảm cho các bản án và quyết định của Toà án được chính xác, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, kháng nghị trong tố tụng hình sự được quy định tại các Điều 336, 337, 338, 339, Điều 342, Điều 371, Điều 373, Điều 376, 377, 378, 379, 380, 381, Điều 398, Điều 400, Điều 401 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.