kháng nghị bản án, quyết định dân sự
"kháng nghị bản án, quyết định dân sự" được hiểu như sau:
Hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng có thẩm quyền phản đối bản án, quyết định dân sự, yêu cầu Toà án có thẩm quyền xét xử lại.Kháng nghị có ý nghĩa nâng cao hiệu quả của công tác kiểm sát, giám đốc việc xét xử, bảo đảm cho việc giải quyết các vụ án dân sự được đúng đắn.Việc kháng nghị được thực hiện theo quy định tại các điều 250, 251, 252, 283, 285, 287, 305, 307, 316, 317 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Theo các quy định này có ba hình thức kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Tòa án: kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.Đối tượng kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Đối tượng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm gồm có: Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm gồm có: Chánh án Toà án cấp trên, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Người có thẩm quyền kháng nghị có thể kháng nghị một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định. Việc kháng nghị được thực hiện bằng văn bản - Quyết định kháng nghị. Kháng nghị hợp pháp có hậu quả pháp lý là Toà án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định bị kháng nghị.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, kháng nghị được quy định tại Điều 278, 279, 280, 281, 282, 283 và Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 25 tháng 11 năm 2015.