khám nghiệm hiện trường
"khám nghiệm hiện trường" được hiểu như sau:
Xem xét nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.Để kịp thời phát hiện và thu giữ dấu vết của tội phạm, vật chứng cũng như làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa của vụ án, việc khám nghiệm hiện trường có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án. Trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải báo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp biết. Tùy từng trường hợp, Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm. Khi khám nghiệm hiện trường phải có người chứng kiến và có thể để cho bị can, bị cáo, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm. Điều tra viên là người chủ trì cuộc khám nghiệm.Khám nghiệm hiện trường được tiến hành qua hai bước là quan sát và khám nghiệm tỉ mỉ.Đối tượng của việc quan sát gồm: trạng thái, quang cảnh của hiện trường; các dấu vết, vật chứng ở hiện trường; tử thi (nếu có người chết). Điều tra viên tiến hành quan sát để xác định phạm vi của hiện trường, nơi có dấu vết, vật chứng; lối vào, lối ra của thủ phạm trên hiện trường; phương thức, thủ đoạn, công cụ và phương tiện phạm tội; nơi cần tập trung khám nghiệm. Khi quan sát hiện trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh toàn cảnh, ảnh định hướng, phác họa sơ đồ hiện trường để ghi nhận lại vị trí, trạng thái ban đầu của hiện trường.Khi khám nghiệm tỉ mỉ, Điều tra viên sử dụng các phương pháp, phương tiện phù hợp để phát hiện, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án. Tất cả công việc khám nghiệm và kết quả xem xét được ghi vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Trong trường hợp không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, khám nghiệm hiện trường được quy định tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2013.