Hệ thống pháp luật

hội thẩm nhân dân

"hội thẩm nhân dân" được hiểu như sau:

Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án.Chế độ Hội thẩm (phụ thẩm) nhân dân được ghi nhận và trở thành một chế định quan trọng trong hoạt động của Tòa án bằng sắc lệnh số 33/SL ngày 13.9.1945 và Sắc lệnh số 13/SL ngày 21.1.1946. Hiến pháp năm 1946 19.11.1946 bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã chính thức ghi nhận nguyên tắc đại diện nhân dân tham gia xét xử. "Trong khi xét xử việc hình phải có Phụ thẩm nhân dân để tham gia ý kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình". Bước vào những năm 50, nền tư pháp của chế độ mới đã có những cải cách lớn nhằm đáp ứng đầy đủ hơn nữa yêu cầu của cách mạng, đòi hỏi của nhân dân. Bằng sắc lệnh số 85/SL ngày 22.5.1950 về cải cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng, phụ thẩm nhân dân được đổi là Hội thẩm nhân dân và đã quy định rõ hơn về địa vị pháp lý của Hội thẩm. Hiến pháp năm 1959 được ban hành và đã ghi nhận nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử. "Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật” (Điều 59). Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định: Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân gồm có một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân... (Điều 112). Từ năm 1986, công cuộc đổi mới đất nước theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được tiến hành. Để phù hợp với tinh thần đổi mới, Hiến pháp năm 1992 được ban hành để thay thế Hiến pháp năm 1980. Sau đó, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 và pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 1993 được ban hành tiếp tục ghi nhận các nguyên tắc hoạt động của Hội thẩm như khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán; khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Các pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động cũng đều thể hiện tinh thần nói trên.Theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam gồm: Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương). Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, đồng thời, cũng do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ, Hội thẩm nhân dân tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Hội đồng nhân dân khóa mới bầu được Hội thẩm nhân dân mới. Hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa án nhân dân nơi mình được bầu, được bồi dưỡng về nghiệp vụ, được tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Tòa án, được cấp trang phục và giấy chứng minh hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử, được hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định. Khi tham gia xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán và độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. Cùng với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có nghĩa vụ giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác, nếu gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường, nếu vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Hội thẩm nhân dân phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hội thẩm nhân dân có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác và bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm nhân dân.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hội thẩm nhân dân được quy định tại Chương VIII  Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 24 tháng 11  năm 2014.