hội đồng quản thác
"hội đồng quản thác" được hiểu như sau:
Cơ quan chính của Liên hợp quốc hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng có chức năng kiểm soát việc thi hành chế độ quản thác quốc tế đối với một số vùng lãnh thổ.Chế độ quản thác được áp dụng đối với các lãnh thổ sau: lãnh thổ trước đây thuộc quy chế lãnh thổ ủy trị của Hội quốc liên; lãnh thổ giành lại được từ các nước phát xít trong Chiến tranh thế giới lần thứ II; các lãnh thổ do những nước có trách nhiệm quản lý tự nguyện đưa vào chế độ quản thác.Sau khi hệ thống quản thác của Liên hợp quốc được thành lập, chỉ có 10 lãnh thổ vốn thuộc quyền ủy trị của Hội quốc liên và 1 lãnh thổ được các nước Đồng minh giành lại từ tay bọn phát xít với dân số gần 19 triệu người được đưa vào hệ thống quản thác. Đến cuối năm 1975, các lãnh thổ quản thác nói trên (trừ các quần đảo chiến lược ở Thái Bình Dương dưới quyền quản lý của Mỹ) đã giành được độc lập.Về cơ cấu tổ chức, Hội đồng quản thác bao gồm ủy ban thường trực các liên minh hành chính và ủy ban thường trực giải quyết các đơn thỉnh cầu. Trong cơ cấu của Hội đồng còn có Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng. Các bộ phận cấu thành Hội đồng hoạt động theo quy tắc do Hội đồng tự ấn định. Hội đồng quản thác được đặt dưới quyền của Đại Hội đồng Liên hợp quốc và có sự liên hệ mật thiết với Hội đồng bảo an, với Hội đồng kinh tế - xã hội và các tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc. Mặc dù trong một số điều khoản về chế độ quản thác và Hội đồng quản thác trong Hiến chương Liên hợp quốc còn có sự hạn chế nhưng so với Hội quốc liên, trong lĩnh vực phi thực dân hóa Liên hợp quốc đã có bước tiến bộ đáng kể.Hiện nay, từ khi Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Tuyên bố về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa, hệ thống quản thác của Liên hợp quốc thực chất đã bị phá vỡ hoàn toàn. Hội đồng quản thác không còn đảm bảo được vai trò và chức năng của cơ quan được Liên hợp quốc thành lập để kiểm tra các hoạt động chức năng của hệ thống quản thác của Liên hợp quốc.