Hệ thống pháp luật

hệ thống hoá pháp luật

"hệ thống hoá pháp luật" được hiểu như sau:

Hoạt động nhằm sắp xếp, hoàn thiện các quy phạm pháp luật, văn bản pháp luật, chấn chỉnh thành hệ thống có sự thống nhất nội tại theo một trình tự nhất định.Hệ thống hóa pháp luật có hai dạng là tập hợp hóa và pháp điển hóa. Theo đó: 1) Tập hợp hóa pháp luật là sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật theo thời gian ban hành, theo cơ quan ban hành hoặc theo lĩnh vực quản lý nhà nước... trong đó, nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được giữ nguyên. Thông thường, việc tập hợp hóa được thực hiện theo từng ngành luật, từng chế định pháp luật. Bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng có thể tiến hành tập hợp hóa pháp luật; 2) Pháp điển hóa là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật trong từng lĩnh vực quản lý nhất định, loại bỏ sự mâu thuẫn, chồng chéo và các quy định lỗi thời, bổ sung quy định mới cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Kết quả của hoạt động pháp điển hóa là việc ban hành một văn bản quy phạm pháp luật mới dựa trên nền tảng pháp luật cũ mà điển hình là bộ luật. Khác với tập hợp hóa, trong pháp điển hóa, nội dung và hình thức của quy phạm pháp luật, chế định luật, văn bản quy phạm pháp luật có thể bị thay đổi và cơ quan có thẩm quyền có thể sáng tạo thêm những quy phạm pháp luật mới hoặc chế định luật mới, nâng một văn bản dưới luật thành đạo luật hoặc bộ luật. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật một cách thường xuyên hoặc định kỳ là trách nhiệm mà các cơ quan nhà nước phải thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 8 Luật ban hành văn bản quy  phạm pháp luật năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm 2002).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 6 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 22 tháng 6 năm 2015.