hàng thừa kế
"hàng thừa kế" được hiểu như sau:
Diện những người có quan hệ gần gũi với người để lại di sản thừa kế và cùng được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.Những người trong diện thừa kế theo pháp luật được phân chia thành ba hàng, được quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự năm 1995 và tiếp tục được quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005, cụ thể: 1) Hàng thừa kế thứ nhất gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; 2) Hàng thừa kế thứ hai gồm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; 3) Hàng thừa kế thứ ba gồm cụ nội, ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.Tuy nhiên, không phải các hàng thừa kế đồng thời được hưởng di sản thừa kế khi người để lại di sản chết. Việc hưởng di sản thừa kế được pháp luật xác định theo một trật tự ưu tiên như sau: nhữngngười cùng hàng thừa kế được hưởng phần thừa kế ngang nhau. Chỉ khi nào trong hàng thừa kế thứ nhất không có hoặc không còn hoặc có nhưng không có quyền nhận, bị truất quyền nhận thừa kế hay khước từ nhận di sản thì những người ở hàng thừa kế thứ hai mới được nhận di sản và chỉ trong trường hợp ở hàng thừa kế thứ nhất, thứ hai không còn hoặc không có ai nhận di sản thì những người ở hàng thứ ba mới được nhận di sản thừa kế.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hàng thừa kế được quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 do Quốc hội ban hành vào ngày 24 tháng 11 năm 2015.