Hệ thống pháp luật

gây rối trật tự công cộng

"gây rối trật tự công cộng" được hiểu như sau:

(Hành vi) vi phạm quy tắc xử sự được đặt ra cho mỗi công dân ở nơi công cộng, xâm phạm tình trạng ổn định của sinh hoạt chung xã hội.Hành vi gây rối trật tự công cộng là các hành vi xâm phạm đến con người, đến quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ hoặc xâm phạm đến sở hữu và diễn ra tại nơi công cộng. Trong đó, nơi công cộng được hiểu là những địa điểm “kín" (rạp hát, rạp chiếu bóng...) hoặc "mở” (sân vận động, công viên, đường phố...) mà ở đó các hoạt động chung của xã hội được diễn ra thường xuyên hoặc không thường xuyên,Biểu hiện cụ thể của hành vi gây rối trật tự công cộng có thể là: 1) Lời nói, cử chỉ thiếu văn hóa xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của một hoặc nhiều người; 2) Hành vi phá phách hoặc làm ô uế các công trình, thiết bị ở nơi công cộng; 3) Hò hét, tạo tiếng động gây ầm ĩ, đua xe máy trái phép; 4) Hành hung người làm nhiệm vụ hoặc người tự nguyện tham gia bảo vệ trật tự nơi công cộng; 5) Tụ tập ẩu đả, đánh nhau ở nơi công cộng...Theo Luật hình sự Việt Nam, hành vi gây rối trật tự công cộng có thể bị coi là tội phạm - Tội gây rối trật tự công cộng. Tội danh này được quy định trong Luật hình sự Việt Nam kể từ khi có Bộ luật hình sự năm 1985. Trước đó, Luật hình sự Việt Nam cũng đã coi hành vi thuộc loại này là tội phạm nhưng chưa có tên gọi như trong Bộ luật hình sự. Cụ thể, trong sắc luật số 03 ngày 15.3.1976 hành vi này được quy định chung với nhiều loại hành vi khác trong cùng một tội danh là tội xâm phạm đến trật tự công cộng...Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tội gây rối trật tự công cộng đã được quy định nhưng chưa được quy định rõ để phân biệt với hành vi gây rối trật tự công cộng chỉ là vi phạm hành chính. Khắc phục hạn chế này, Bộ luật hình sự năm 1999 đã xác định ranh giới giữa gây rối trật tự công cộng là tội phạm với gây rối trật tự công cộng chỉ là vi phạm. Theo đó, chỉ bị coi là tội phạm khi những trường hợp gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng cũng như những trường hợp gây rối trật tự công cộng mà chủ thể đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về hành vi này mà còn vi phạm. Theo quy định của Bộ luật hình sự, tội này có thể bị xử phạt tới 7 năm tù.Hành vi gây rối trật tự công cộng còn có thể cấu thành tội xâm phạm sở hữu hoặc tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, khi hành vi này đã gây ra thiệt hại cho sở hữu, sức khỏe đến mức cấu thành tội phạm hoặc đã gây thiệt hại cho tính mạng.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.