gá bạc
"gá bạc" được hiểu như sau:
(Hành vi) cho sử dụng địa điểm làm nơi thực hiện việc đánh bạc để trục lợi.Gá bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc là hành vi không chỉ ảnh hưởng xấu đến gia đình và cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Do vậy, tội này được quy định trong Luật hình sự Việt Nam rất sớm. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tội này là sắc lệnh số 168 năm 1948. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, tội gá bạc được quy định chung với các hành vi cờ bạc khác trong sắc luật số 03 năm 1976. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999, tội gá bạc đều được quy định thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội gá bạc được quy định cụ thể hơn với dấu hiệu phân biệt giữa gá bạc là tội phạm và gá bạc là vi phạm cũng như với các dấu hiệu định khung hình phạt để phân hóa trách nhiệm hình sự giữa các trường hợp phạm tội gá bạc.Gá bạc, xét về bản chất là hành vi giúp sức đánh bạc, thể hiện ở việc tạo điều kiện về địa điểm cho những người có hành vi đánh bạc nhưng có thêm dấu hiệu riêng là mục đích trục lợi. Đây là loại hành vi xảy ra tương đối phổ biến cùng với hành vi đánh bạc. Do vậy, hành vi gá bạc cần được quy định thành tội danh riêng.Địa điểm ở đây có thể là nơi đang ở, nơi làm việc, nơi chưa sử dụng đến hoặc một nơi nào khác (thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của người gá bạc). Theo Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi gá bạc chỉ bị coi là tội phạm khi gá bạc với quy mô lớn hoặc khi chủ thể đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi cờ bạc (đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc) chưa được xóa án tích.Hình phạt được quy định cho tội gá bạc có mức cao nhất là 10 năm tù. Hình phạt bổ sung có thể áp dụng cho tội này là phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, gá bạc được quy định tại Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.