Hệ thống pháp luật

địa vị pháp lý của pháp nhân

"địa vị pháp lý của pháp nhân" được hiểu như sau:

Tổng hợp các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm mà pháp luật quy định cho pháp nhân có tư cách chủ thể, tạo cho pháp nhân khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.Một pháp nhân có địa vị pháp lý khi thỏa mãn các điều kiện như được thành lập một cách hợp pháp, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản riêng để hoạt động tách biệt với tài sản của các thành viên của pháp nhân và tự chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó, nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.Xác định địa vị pháp lý của pháp nhân là xác định tư cách chủ thể của pháp nhân, gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân, trách nhiệm của pháp nhân đối với việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình.Khái niệm pháp nhân với tư cách là chủ thể hợp đồng kinh tế và các điều kiện của pháp nhân lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 và Nghị định số 17/HĐBT ngày 16.01.1990.Địa vị pháp lý của pháp nhân nói chung được quy định trong Bộ luật dân sự. Đối với từng loại hình pháp nhân cụ thể do văn bản pháp luật chuyên ngành quy định thì địa vị pháp lý của pháp nhân được xác định trong các văn bản đó.Khoa học pháp lý phân biệt năng lực pháp luật chung và năng lực pháp luật đặc biệt của pháp nhân: năng lực pháp luật chung của pháp nhân là năng lực của các pháp nhân có quyền được hưởng các quyền, nghĩa vụ dân sự giống như thể nhân, trừ các quyền, nghĩa vụ tự nhiên của con người. Các pháp nhân có năng lực pháp luật đặc biệt chỉ có quyền tham gia các quan hệ pháp luật cần thiết để thực hiện mục đích được quy định trong điều lệ của pháp nhân đó.