Hệ thống pháp luật

công ước viên năm 1969 về luật điềuước giữa các quốc gia

"công ước viên năm 1969 về luật điềuước giữa các quốc gia" được hiểu như sau:

Điều ước quốc tế đa phương đầu tiên quy định những nguyên tắc và quy phạm cơ bản về việc ký kết, hiệu lực, bảo lưu, thi hành, giải thích, bổ sung, sửa đổi, giải quyết tranh chấp về điều ước, chấm dứt hiệu lực các điều ước quốc tế và một số thủ tục khác liên quan đến việc lưu chiểu, thông báo, công bố và đăng ký điều ước quốc tế, ký kết giữa các quốc gia với nhau.Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước gồm Lời nói đầu và 7 chương, chia thành 85 điều kèm 1Phụ lục, được Hội nghị của Liên hợp quốc gồm đại diện của 110 quốc gia thông qua ngày 22.5.1969 và mở ký lại để các quốc gia ký tại Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Áo từ ngày 23.5.1969 và sau đó tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York đến ngày 30.4.1970. Công ước có hiệu lực kể từ ngày 27.01.1980. Đến nay, đã có trên 90 quốc gia là thành viên Công ước này, trong đó có Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Ngày 22.8.2001, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Quyết định số 631/2001/QĐ/CTN phê chuẩn việc Việt Nam gia nhập Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước. Ngày 05.9.2001, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam đã ký Công hàm gia nhập gửi Tổng thư ký Liên hợp Quốc. Việt Nam chính thức trở thành thành viên Công ước kể từ ngày 9.11.2001.Công ước quy định cho phép bảo lưu đối với các quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến giải thích và áp dụng các điều khoản thuộc Chương V (vô hiệu, chấm dứt và tạm đình chỉ thi hành điều ước), phải bắt buộc thông qua cơ chế Ủy ban hòa giải hoặc phải công nhận thẩm quyền mặc nhiên xét xử của Tòa án quốc tế chỉ theo yêu cầu của một bên tranh chấp.Khi gia nhập Công ước này, Việt Nam đã bảo lưu Điều 66, theo đó, Tòa án quốc tế có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cả trong những trường hợp chỉ do một bên tranh chấp yêu cầu. Việt Nam không thể chấp nhận quy trình giải quyết tranh chấp như vậy, với lý do Việt Nam đã là thành viên Quy chế Tòa án quốc tế, song chưa công nhận thẩm quyền xét xử mặc nhiên của tòa án. Bảo lưu nêu trên hoàn toàn phù hợp với thực tiễn quốc tế, không trái với quy định của Công ước Viên năm 1969.