Hệ thống pháp luật

công đoàncơ sở

"công đoàncơ sở" được hiểu như sau:

Tổ chức cấp cơ sở của công đoàn được thành lập tại đơn vị sử dụng lao động có từ 5 công đoàn viên trở lên tự nguyện tham gia, gia nhập, được công đoàn cấp trên quyết định công nhận.Công đoàn cơ sở có tư cách pháp nhân. Pháp luật lao động Việt Nam thừa nhận công đoàn cơ sở (hoặc công đoàn lâm thời) là đại diện chính thức của tập thể người lao động, thực hiện chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người lao động, tập thể lao động trong đơn vị. Công đoàn cơ sở có quyền thương lượng ký kết thỏa ước lao động tập thể với người sử dụng lao động, tham gia với người sử dụng lao động để đảm bảo việc làm, tiền lương cho người lao động, tham gia giải quyết tranh chấp lao động, tổ chức và lãnh đạo đình công...Sau khi được thông báo chính thức về việc thành lập công đoàn cơ sở, người sử dụng lao động phải thừa nhận, phải cộng tác và tạo điều kiện để công đoàn cơ sở thực hiện chức năng của mình. Người sử dụng lao động không được phân biệt đối xử và can thiệp vào các hoạt động nội bộ của tổ chức công đoàn cơ sở.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, công đoàn cơ sở được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật công đoàn năm 2012 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 20 tháng 06 năm 2012:” Công đoàn cơ sở là tổ chức cơ sở của Công đoàn, tập hợp đoàn viên công đoàn trong một hoặc một số cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, được công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở công nhận theo quy định của pháp luật và Điều lệ Công đoàn Việt Nam.”.