Hệ thống pháp luật

cơ quan thi hành án dân sự

"cơ quan thi hành án dân sự" được hiểu như sau:

Cơ quan nhà nước có chức năng tổ chức việc thi hành án dân sự.Trước đây, Tòa án là cơ quan tổ chức thi hành án dân sự. Từ ngày 01.6.1993, Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 quy định các Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành án dân sự. Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thay thế Pháp lệnh năm 1993 tiếp tục khẳng định các cơ quan thi hành án gồm có Cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gọi chung là Cơ quan thi hành án cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, gọi chung là Cơ quan thi hành án cấp huyện, Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương gọi chung là Cơ quan thi hành án cấp quân khu là các cơ quan có thẩm quyền tổ chức công tác thi hành án dân sự. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của các cơ quan thi hành án do Chính phủ quy định, các Cơ quan thi hành án dân sự, trừ Cơ quan thi hành án dân sự trong quân đội, được tổ chức ở hai cấp: Cơ quan thi hành án cấp tỉnh và Cơ quan thi hành án cấp huyện.Trong cơ quan thi hành án dân sự có Chấp hành viên trưởng, các Chấp hành viên và các cán bộ làm công tác thi hành án. Đứng đầu Cơ quan thi hành án có Thủ trưởng cơ quan thi hành án.Ngoài các cơ quan thi hành án dân sự nêu trên thì Ủy ban nhân dân cấp xã cũng tham gia tổ chức thi hành án dân sự đối với những việc được cơ quan thi hành án cấp huyện chuyển giao (những việc số tiền hoặc tài sản phải thi hành trị giá không quá 500.000 đồng).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, hệ thống tổ chức và nhiệm vụ quyền hạn của Cơ quan thi hành án dân sự được quy định tại Chương II Luật thi hành án dân sự năm 2008  do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 14 tháng 11 năm 2008.