Hệ thống pháp luật

cơ quan lãnhsự

"cơ quan lãnhsự" được hiểu như sau:

Cơ quan quan hệ đối ngoại của một nước tại nước ngoài thực hiện các chức năng lãnh sự trong khu vực lãnh thổ nhất định trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc gia hữu quan.Theo quy định của Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, cơ quan lãnh sự gồm: tổng lãnh sự quán, lãnh sự quán, phó lãnh sự quán và đại lý lãnh sự quán.Thực tiễn của quan hệ lãnh sự hiện nay cho thấy các nước thường thỏa thuận đặt tổng lãnh sự quán và lãnh sự quán.Việc thiết lập quan hệ lãnh sự, đặt cơ quan lãnh sự, việc xếp hạng và khu vực lãnh sự hoặc việc thay đổi trụ sở cơ quan lãnh sự, cách xếp hạng và khu vực lãnh sự, mở thêm cơ quan lãnh sự khác ngoài khu vực đã quy định phải được nước tiếp nhận đồng ý.Khác với cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự chỉ đại diện cho quốc gia mình về một số vấn đề nhất định và chỉ trong phạm vi lãnh thổ nhất định (gọi là khu vực lãnh sự). Do đó, một nước có thể có nhiều cơ quan lãnh sự ở nước khác. Tuy nhiên, các nước có thể thỏa thuận để cơ quan lãnh sự kiêm nhiệm chức năng ngoại giao hoặc ngược lại.Chức năng của cơ quan lãnh sự được quy định tại Điều 5 Công ước Viên năm 1963 về quan hệ lãnh sự. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan lãnh sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định đầy đủ trong Pháp lệnh lãnh sự (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.1991).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cơ quan đại diện lãnh sự được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 do Quốc hội khóa 12 ban hành ngày 18 tháng 06 năm 2009: “Cơ quan đại diện lãnh sự là Tổng Lãnh sự quán và Lãnh sự quán.”.