chứa chấp tài sản do người khác phạmtội mà có
"chứa chấp tài sản do người khác phạmtội mà có" được hiểu như sau:
(Hành vi) cất giấu hoặc tạo điều kiện cho việc cất giấu những tài sản mình biết rõ là tài sản do hành vi phạm tội của người khác mà có (do trộm cắp, tham ô, cướp...).Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội, khuyến khích việc thực hiện tội phạm cũng như gây khó khăn cho hoạt động tư pháp trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.Trong luật hình sự Việt Nam, hành vi này đã được quy định là tội phạm trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985. Trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân năm 1970 đều có điều luật quy định về tội này. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999, tội này được quy định thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng cùng với hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.Đối tượng tác động của tội này là tài sản do (người khác) phạm tội mà có. Đó có thể là bất kỳ tội phạm nào được quy định trong Bộ luật hình sự mà kết quả trực tiếp của nó là chủ thể có được tài sản một cách bất hợp pháp.Lỗi của người phạm tội là cố ý, thể hiện ở chỗ là chủ thể phải biết rõ tính chất của tài sản mà mình chứa chấp (tài sản do hành vi phạm tội mà có).Cần chú ý, hành vi chứa chấp... ở tội này được thực hiện không có sự hứa hẹn trước với người có tài sản do phạm tội mà có. Do vậy, có thể nói, hành vi chứa chấp không có tác động đến việc thực hiện tội phạm của người có tài sản do phạm tội mà có. Đây là điểm khác so với hành vi giúp sức trong đồng phạm. Hành vi chứa chấp... mà có sự hứa hẹn trước là hành vi có tác động trực tiếp đến việc thực hiện tội phạm của người có tài sản do phạm tội mà có và bị coi là hành vi giúp sức trong đồng phạm.Hình phạt chính được quy định cho tội này có mức tối đa là 15 năm tù. Hình phạt bổ sung của tội này có thể là phạt tiền hoặc tịch thu tài sản.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.