chủ thể quản lý
"chủ thể quản lý" được hiểu như sau:
Cơ quan, tổ chức, cá nhân được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ủy quyền để nhân danh chủ thể ủy quyền sử dụng quyền lực được giao nhằm điều hành, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình vận động theo ý chí của mình nhằm đạt được mục đích đã được định trước.Chủ thể quản lý có quyền hạn và trách nhiệm thực hiện hành vi quản lý được giao tác động lên đối tượng quản lý nhằm phối hợp hoạt động riêng rẽ của từng cá nhân tạo thành hoạt động chung thống nhất trong tập thể hướng theo một mục tiêu nhất định.Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào có hoạt động chung của con người. Quản lý được thực hiện bằng tổ chức hay quyền uy. Chủ thể quản lý thực hiện nhiệm vụ quản lý thông qua việc sử dụng tổ chức và quyền uy tác động lên đối tượng quản lý.Chủ thể quản lý có thể là một số cơ quan, tổ chức hay một cá nhân, sử dụng phương tiện là pháp luật, điều lệ hoặc nội quy, quy chế để thực hiện nhiệm vụ quản lý.Tuy nhiên, toàn bộ tập thể to lớn này không thể thực hiện các quyền của mình với tư cách chủ sở hữu đất đai. Bởi vậy, họ phải thông qua người đại diện có đủ quyền lực về mặt kinh tế và quyền lực về mặt chính trị để thực hiện sứ mệnh lịch sử của toàn dân. Đó chính là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Tại khoản 1 Điều 5 Luật đất đai năm 2003 quy định "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu".Như vậy, có thể khẳng định, chủ thể quyền sở hữu đất đai ở Việt Nam là toàn dân Việt Nam; toàn dân Việt Nam thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua người đại diện là nhà nước.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, chủ thể quyền sở hữu đất đai được quy định tại Điều 4 Luật đất đai năm 2013 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2013: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.".