cấm kết hôn
"cấm kết hôn" được hiểu như sau:
Không cho phép nam nữ kết hôn thuộc một số trường hợp theo quy định của pháp luật.Cấm kết hôn là quy định thể hiện quan điểm của Nhà nước ta trong việc hạn chế quyền kết hôn của nam nữ trong những trường hợp đặc biệt, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người kết hôn, của gia đình và của xã hội, bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ. Trong khoa học pháp lý và trong các văn bản pháp luật, các thuật ngữ “cấm không được kết hôn” hoặc “không được kết hôn" được sử dụng có nghĩa như thuật ngữ “cấm kết hôn”. Dưới thời Pháp thuộc, trong Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 đã quy định một số trường hợp “cấm không được kết hôn với nhau” hoặc “không được kết hôn với nhau”. Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, trong đạo luật về hôn nhân và gia đình đầu tiên - Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, thuật ngữ “cấm kết hôn" đã được sử dụng, nhưng bên cạnh đó thuật ngữ “không được kết hôn" cũng vẫn được sử dụng với cùng một nghĩa. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 và năm 2000 đã sử dụng thuật ngữ “cấm kết hôn" đối với tất cả các trường hợp pháp luật không cho phép nam nữ kết hôn. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định cấm kết hôn trong các trường hợp: 1) Người đang có vợ hoặc có chồng; 2) Người mất năng lực hành vi dân sự; 3) Giữa những người cùng dòng máu trực hệ, những người có họ trong phạm vi ba đời; 4) Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; giữa những người cùng giới tính.Khi nam nữ yêu cầu đăng ký kết hôn mà một trong các bên thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn có quyền từ chối đăng ký kết hôn. Trong trường hợp nam nữ đã được đăng ký mà một trong hai bên kết hôn thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn thì việc kết hôn đó là trái pháp luật, tòa án có thể hủy việc kết hôn trái pháp luật đó khi có yêu cầu.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, các trường hợp cấm kết hôn được quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 19 tháng 06 năm 2014.