cấm cư trú
"cấm cư trú" được hiểu như sau:
Hình phạt bổ sung buộc người bị kết án sau khi chấp hành xong hình phạt tù không được thường trú cũng như tạm trú tại một số địa phương trong thời gian nhất định.Cấm cư trú được áp dụng kèm theo hình phạt chính là hình phạt tù. Trước khi được quy định là hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự đầu tiên (Bộ luật hình sự năm 1985), cấm cư trú đã được quy định trong một số văn bản pháp luật là hình phạt bổ sung của các tội phạm được quy định trong các văn bản đó. Ví dụ: Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa năm 1970... Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999, cấm cư trú đều được quy định là hình phạt bổ sung với nội dung hoàn toàn giống nhau.Xét về tính chất, cấm cư trú cũng là hình phạt hạn chế tự do như hình phạt quản chế nhưng ở mức độ thấp hơn. Việc cấm cư trú ở một số địa phương là nhằm tiếp tục cách ly người bị kết án khỏi địa phương có điều kiện để thúc đẩy họ phạm tội lại, qua đó nhằm củng cố thêm kết quả giáo dục, cải tạo trong quá trình chấp hành hình phạt tù. Thời gian cấm cư trú là từ 1 năm đến 5 năm.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, cấm cư trú được quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015: “Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú hoặc thường trú ở một số địa phương nhất định.”.