Hệ thống pháp luật

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

"bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" được hiểu như sau:

Một loại trách nhiệm dân sự của bên có lỗi (cố ý hoặc vô ý), gây hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, gây hại đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác.Về nguyên tắc, bên vi phạm pháp luật gây thiệt hại có nghĩa vụ bù đắp toàn bộ thiệt hại mà bên bị vi phạm đã phải gánh chịu. Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hành vi vi phạm pháp luật, thiệt hại xảy ra, quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật với thiệt hại và lỗi của bên vi phạm. Tuy nhiên, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu súc vật, chủ sở hữu nhà cửa... phải bồi thường thiệt hại ngay cả khi họ không có lỗi, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng.Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong các chế định đầu tiên của pháp luật dân sự được hình thành từ thời pháp luật La Mã ra đời cách đây hàng ngàn năm. Theo thời gian, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngày càng được hoàn thiện. Cùng với hợp đồng dân sự, việc gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật là căn cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ dân sự.Ở Việt Nam, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chủ yếu được quy định trong Bộ luật dân sự. Ngoài ra, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn được quy định tại Bộ luật lao động, Bộ luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng, Pháp lệnh chất lượng hàng hóa...Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, bồi thường thiệt hại do thu hồi đất được quy định tại Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất do Chính Phủ ban hành ngày 15 tháng 05 năm 2014.