Hệ thống pháp luật

biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự

"biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự" được hiểu như sau:

Biện pháp dùng quyền lực nhà nước buộc người có liên quan trong vụ án hình sự phải tuân theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.Một số biện pháp cưỡng chế đã được quy định trong các văn bản pháp luật, thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1954, nhưng chỉ là những quy định đơn lẻ về việc áp dụng các biện pháp đó. Thời kỳ từ năm 1954 đến năm 1975, pháp luật tố tụng hình sự đã đề cập các nguyên tắc chung về thủ tục bắt, giam, tha, khám người, khám nhà ờ, khám đổ vật và thư tín của kẻ phạm pháp. Điều 27, Điều 28 Hiến pháp năm 1959 đã quy định về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm về nhà ở, đổ vật, thư tín của công dân.Kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đây, Bộ luật tố tụng hình sự quy định về các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự. Theo đó, các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được chia thành ba nhóm: 1) Nhóm biện pháp ngăn chặn gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, được quy định tại Chương VI của Bộ luật tố tụng hình sự với tên gọi “Những biện pháp ngăn chặn"; 2) Nhóm biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét, xem xét dấu vết trên thân thể, được quy định tại các Chương XII, XIII Bộ luật tố tụng hình sự; 3) Nhóm biện pháp bảo đảm cho điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng và các biện pháp áp dụng đối với người vi phạm trật tự phiên tòa, được quy định rải rác tại nhiều chương khác nhau của Bộ luật tố tụng hình sự.Tùy thuộc vào yêu cầu của việc giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp theo đúng quy định của pháp luật.