Hệ thống pháp luật

bàn về khế ước xã hội

"bàn về khế ước xã hội" được hiểu như sau:

Tên gọi vắn tắt của bản luận văn “Bàn về khế ước xã hội hay là các nguyên tắc của quyền chính trị" (Du contrat social - ou principes du droit politique).Tác phẩm viết năm 1762 của Rousseau (Jean - Jacques Rousseau; 1712 - 1778), nhà tư tưởng cách mạng Pháp 1789, một chiến sĩ nhiệt thành đấu tranh cho các lý tưởng dân chủ tư sản tiến bộ, có ảnh hưởng hết sức sâu rộng trong quần chúng cách mạng Pháp.Là một trong những tác phẩm xuất hiện trong thời đại khai sáng thế kỷ XVII-XVIII, được coi là tác phẩm kinh điển chứa đựng những tư tưởng tiên phong về cách mạng dân chủ, có ảnh hưởng lớn trong cách mạng Pháp năm 1789, nội dung không chỉ phê phán mạnh mẽ các thiết chế nhà nước với pháp luật phong kiến mà còn phủ định hoàn toàn chế độ phong kiến nói chung, khẳng định rằng, vì nhà nước ra đời trên cơ sở của khế ước xã hội nên các công dân có quyền hủy bỏ khế ước đó trong trường hợp có sự lạm dụng quyền lực.Khi viết tác phẩm, tác giả theo đuổi mục đích được ghi ngay ở đầu cuốn thứ nhất: “Tôi muốn tìm xem trong trật tự dân sự có chăng một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người; và có chăng những luật pháp đúng với ý nghĩa chân thực của nó... gắn liền cái mà luật pháp cho phép với cái mà lợi ích thúc đẩy phải làm, khiến cho công lý và lợi ích không tách rời nhau”.Cuốn sách gồm 4 phần mà tác giả đặt tên là 4 quyển; mỗi quyển được chia thành nhiều chương và mỗi chương đều có tiêu đề, tất cả có 48 chương, khoảng 60.000 từ.Quyển thứ nhất gồm 9 chương, trình bày những luận điểm chung về sự hình thành một xã hội loài người thoát thai từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái công dân và những cơ sở về việc thành lập một “công ước xã hội”.Mở đầu cho chương I quyển thứ nhất, Rousseau đưa ra một nhận xét khái quát về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội: người ta sinh ra tự do nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích.Rousseau đưa ra nhận định: Khi nhân dân bị cưỡng bức mà lại biết phục tùng, họ làm thế là phải; nhưng nếu có thể hất cái ách áp bức đó thì còn hay hơn nữa; vì như thế là họ giành lại và không ai được tước đoạt tự do của họ. Và khẳng định: trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm nền tảng cho mọi thứ quyền khác. Nhưng trật tự xã hội không phải tự nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở những công ước. Vậy phải tìm hiểu công ước đó là gì.Rousseau làm rõ một ý cơ bản: nhân dân phải phục tùng khi họ bị cưỡng bức là vì họ phải làm theo kẻ mạnh. Đó là một việc bắt buộc phải làm, không hề là tự nguyện với họ và họ làm thế là khôn ngoan. Nhưng kẻ mạnh không phải lúc nào cũng đủ mạnh để mãi mãi làm người thống trị; muốn mãi thế hắn phải chuyển lực thành quyền và chuyển sự phục tùng thành nghĩa vụ. Lực là một sức mạnh vật lý, chẳng có chút đạo đức nào trong đó cả. Người ta chỉ bắt buộc phải phục tùng khi mà sức mạnh đã thành ra hợp pháp, chuyển thành quyền lực. Nhưng con người sinh ra đều tự do và người với người đều bình đẳng. Rousseau phê phán của  Aristoteles khi nhà triết học cổ Hy Lạp này cho rằng con người vốn không bình đẳng, có kẻ sinh ra làm nô lệ, có kẻ sinh ra để trị vì. Rousseau viết: Aristoteles nói có lý, nhưng đã lấy kết quả làm nguyên nhân, sở dĩ có người nô lệ bẩm sinh là vì trước đó có những người nô lệ không bẩm sinh. Họ cũng bị cưỡng bức làm nô lệ, do tính hèn nhát mà họ thành nô lệ mãi. Rousseau phê phán những người không dám đấu tranh: “Từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con người, là từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người”.Rousseau đặt vấn đề cần thiết phải có một khế ước (hay công ước xã hội) khi con người thoát ra khỏi trạng thái tự nhiên như các động vật khác để trở thành con người công dân trong xã hội. Ông xuất phát từ giả thiết, trước khi có nhà nước con người sống trong trạng thái tự nhiên, trong đó mọi người đều bình đẳng, chưa có tư hữu và bất công xã hội. Trạng thái tự nhiên có đặc điểm là tự do và bình đẳng, ở đó, chỉ có một dạng bất công là thể chất xuất phát từ sức khỏe và tuổi tác khác nhau của từng người. Bất công xã hội xuất hiện với sự xuất hiện sở hữu tư nhân đưa xã hội đến sự phân hóa giàu - nghèo; người giàu muốn giàu thêm bằng thành quả lao động của người khác. Đấu tranh giữa người và người xuất hiện: cướp bóc, chiếm đoạt, chiến tranh xâm lược, nô dịch xuất hiện, ở Rousseau có một loạt tư tưởng về mối quan hệ nhà nước, pháp luật và bất công xã hội với sự nảy sinh chế độ tư hữu, nhà nước và pháp luật là sản phẩm của chế độ tư hữu, sự áp bức, bóc lột, lộng quyền, bạo lực; giai đoạn cực đoan của bất công bắt đầu khi mọi người trở nên vô quyền như nhau trước kẻ chuyên quyền. Rousseau cố gắng “tìm kiếm hình thức liên kết bằng sức lực chung có thể bảo vệ được nhân cách và tài sản của mỗi thành viên, và trong đó mỗi người liên kết với tất cả, song chì phục tùng chính mình và được tự do như trước". Và đây chính là nội dung của khế ước xã hội. Thực chất của công ước quy vào một công thức chung: Mỗi người đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung và tất cả tiếp nhận mỗi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của toàn thể.Quyển thứ hai gồm 12 chương, nội dung chính là bàn về lập pháp, mà ngay ở chương I qua tiêu đề của chương, Rousseau khẳng định nguyên lý: chủ quyền tối cao là không thể từ bỏ và ở chương II - chủ quyền tối cao là không thể phân chia và chủ quyền tối cao nhằm thực hiện ý chí chung. Cơ quan quyền lực tối cao phải là một "con người" tập thể. Rousseau cũng làm rõ: ý chí chung không nhất thiết lúc nào cũng phải tuyệt đối trăm người như một nhưng điều cần thiết là mỗi tiếng nói đểu được đếm xỉa tới. Nếu gạt bỏ một tiếng nói nào thì tính chất chung sẽ bị thương tổn.Rousseau đưa ra tư tưởng quyền lực nhân dân trực tiếp. Ý chí chung không thể chỉ là đại diện, người dân không thể bị đặt vào hoàn cảnh tự thân không thể, ngay cả khi họ muốn, mất đi quyền không thể tách rời trong việc lập pháp. Dân chủ và tự do chỉ có thể ở nơi nhân dân là người lập pháp. Rousseau đề cập đến trường hợp ý chí chung có thể bị lầm lẫn không và giảng giải: nếu có nhóm nhỏ dựa dẫm vào tập thể lớn để thi thố âm mưu, thì kết quả sẽ ít, gần với ý chí chung hơn. Cuối cùng, nếu có một nhóm to phình ra, trùm lên tất cả các nhóm khác, lúc đó sẽ không còn ý chí chung nữa.Bàn về luật là một chương quan trọng, vì luật, theo Rousseau bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người, là sự thống nhất cái tổng thể của đối tượng. Luật trị vì trong một nước cộng hòa và luật trị vì là lợi ích chung trị vì. Từ bàn về luật, tác giả đề cập tới cơ quan lập pháp. Cái trí tuệ làm ra luật phải là một trí tuệ ưu việt. Nó xây dựng một sự nghiệp cao cả lâu dài, có thể phải làm trong một thế kỷ và hưởng thụ trong thế kỷ tiếp sau và lập pháp là đỉnh cao nhất của sự hoàn thiện mà sức mạnh tập thể của một quốc gia có thể đạt tới.Quyển thứ ba gồm 18 chương, chủ yếu bàn về các cơ quan hành pháp. Rousseau so sánh Chính phủ như một trong hai động lực của một quốc gia - động lực sức mạnh còn lực ý chí thuộc về cơ quan lập pháp. Không có ý chí thì không xảy ra hành động, nhưng không có sức mạnh thì hành động không có kết quả. Lực tổng quát của Chính phủ là lực của quốc gia. Chính phủ mạnh thể hiện ở chỗ quốc gia mạnh chứ không phải xây dựng một bộ máy cho đông người. Quan lại càng đông chính phủ càng yếu.Theo Rousseau, có 3 loại chính phủ: chính phủ dân chủ cấu trúc bảo đảm cho người dân tham gia trực tiếp nhiều nhất cho công việc quản lý quốc gia - loại hình chính phủ lý tưởng, tiếp là chính phủ quý tộc và chính phủ quân chủ... Dấu hiệu của một chính phủ tốt là bảo đảm hòa bình và phồn vinh cho dân chúng và đó là mục đích cuối cùng của một chính phủ... Điều quan tâm lớn của Rousseau là tình trạng chính phủ lạm quyền và thoái hóa. Khi người cầm đầu chính phủ không chịu cai trị theo pháp luật, lấn át cơ quan quyền lực tối cao hoặc các thành viên trong chính phủ không tốt, mỗi người thoán đoạt quyền hành một cách riêng rẽ, dân chúng có thể cách chức hay bãi miễn họ. Làm được như vậy, các quan chức chính phủ sẽ luôn luôn cảm thấy mối đe dọa mất chức mà tận tụy, thực hiện trách nhiệm của mình trong khuôn khổ được giao. Rousseau tin rằng, việc thiết lập được một chế độ cộng hòa dân chủ thì có thể vượt qua những thoái hóa làm biến dạng một cách kỳ quặc chất của con người, sẽ hoàn toàn biến mất tình trạng người áp bức người, sẽ không còn sự bất bình  đẳng quá đáng giữa người và người.Quyển thứ tư gồm 9 chương, tiếp tục bàn nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề cơ quan tư pháp.Một số chương của quyền này được Rousseau dành để nói thêm ý chí chung:Ý chí chung của toàn dân khi được xác định và trở thành luật tức là mọi người liên kết lại, tự coi như một cơ thể thống nhất, thì mọi điều phán quyết của tập thể đều năng động và giản dị... còn khi mối ràng buộc bị lơi lỏng, nhà nước yếu đi, quyền lợi riêng tư nổi lên, các phe nhóm nhỏ tác động vào xã hội. Rousseau nhấn mạnh đến các hình thức bảo đảm dân chủ, trong đó ông rất đề cao vai trò của các cuộc bầu cử và xem các cuộc đại hội toàn dân La Mã cổ đại là phương thức hiệu nghiệm để thực hiện dân chủ trong một chế độ cộng hòa. Đồng thời, Rousseau đề cập một cơ chế thật hiệu lực là các cơ quan tư pháp. Đó là một cơ quan đặc biệt không tham dự vào bất cứ một bộ phận nào và nó sẽ đặt mỗi bộ phận vào đúng vị trí của nó làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa chính phủ và nhân dân, giữa chính phủ và cơ quan quyền lực tối cao hoặc giữa cả ba bộ phận ấy khi cần thiết. Đó là cơ quan bảo tồn các luật và quyền lập pháp. Cơ quan tư pháp không được có một chút quyền lập pháp hay hành pháp nào, nhưng chính do đó mà nó có quyền cao hơn cả, vì nó bảo vệ luật mà luật là do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do chính phủ chấp hành... chức quan tư pháp là người nói lên lời phán xét của dân chúng... là người công bố dư luận công chúng.