Hệ thống pháp luật

bán lẻ

"bán lẻ" được hiểu như sau:

Hình thức bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của họ.Với việc bán lẻ, hàng hóa kết thúc quá trình lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng cá nhân; giá trị hàng hóa được thực hiện đầy đủ. Thông thường bán lẻ được tiến hành trong mạng lưới thương nghiệp bán lẻ (các cửa hàng, cửa hiệu, quầy hàng, quán hàng, nhà ăn, xe lưu động...). Trong lĩnh vực bán lẻ, mỗi lần chỉ bán một số lượng nhỏ nhưng cũng có trường hợp bán lẻ những lô hàng lớn, chẳng hạn bán hàng cho những đơn vị tiêu dùng tập thể (trường học, trại điều dưỡng). Doanh số bán lẻ là tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ xã hội.Hành vi bán hàng hóa hoặc dịch vụ ở mức giá quá thấp so với giá thông thường nhằm giành thị phần, loại bỏ đối thủ cạnh tranh trên thị trường.Bản chất của việc bán phá giá nằm ở chỗ đối thủ cạnh tranh có tiềm lực mạnh chấp nhận bán hàng ở mức lỗ nào đó trong hiện tại để sớm tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. Sau khi đã tiêu diệt được đối thủ cạnh tranh, loại bỏ được những áp lực cạnh tranh chủ yếu trên thị trường, doanh nghiệp bán phá giá sẽ nâng giá bán hàng hóa, bóc lột người tiêu dùng nhằm thu lợi nhuận bù đắp vào khoản thua lỗ trước đó và hưởng lợi nhuận siêu ngạch. Nói chung, dưới giác độ pháp luật cạnh tranh, hành vi bán phá giá bị coi là bất hợp pháp.Trong quan hệ thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là hành vi của doanh nghiệp thuộc quốc gia này bán hàng sang quốc gia khác với giá quá thấp nhằm giành giật thị trường xuất khẩu. Do hàng nhập khẩu được bán với mức giá quá thấp (tức là thấp hơn giá thông thường của hàng hóa) nên người chịu thiệt hại đầu tiên chính là những nhà sản xuất trong nước. Theo họ, việc bán phá giá là hành vi cạnh tranh không công bằng và cần phải được ngăn chặn. Từ giác độ của người tiêu dùng, hành vi bán phá giá sẽ mang lại lợi ích trước mắt. Tuy nhiên, rất có thể trong tương lai khi cạnh tranh bị triệt tiêu, người tiêu dùng sẽ bị chính doanh nghiệp bán phá giá bóc lột bằng cách định giá quá cao trong điều kiện không còn cạnh tranh hoặc tuy còn cạnh tranh nhưng không đáng kể. Chính vì vậy, nói chung, các quốc gia thường coi hành vi bán phá giá trong quan hệ thương mại quốc tế là không chấp nhận được và cần phải có biện pháp đối phó.Đáp ứng nguyện vọng này, Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT, Điều 6) và Hiệp định chống bán phá giá (Anti-dumping Agreement) của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cho phép các quốc gia thành viên được quyền đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm “bảo vệ” ngành sản xuất trong nước khi mà ngành này bị thiệt hại thực sự từ hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài. Từ “bảo vệ” đến "bảo hộ” đôi khi không có ranh giới rõ ràng. Chính vì thế, trong nhiều trường hợp quốc gia có thể bảo hộ ngành sản xuất trong nước của mình dưới danh nghĩa “bảo vệ ngành sản xuất trong nước”.Tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trong quan hệ thương mại quốc tế, ngày 29.4.2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam (Pháp lệnh số 20/2004/PL- UBTVQH11) có hiệu lực từ ngày 01.10.2004 quy định các biện pháp cụ thể mà Chính phủ Việt Nam có thể áp dụng khi có hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài vào thị trường Việt Nam. Pháp lệnh này căn bản tuân thủ các quy định tại Điều 6 Hiệp định GATT và Hiệp định chống bán phá giá của WTO.Theo Pháp lệnh này, hàng hóa có xuất xứ từ nước ngoài bị coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường - giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước (hoặc vùng lãnh thổ) xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường. Trong trường hợp không có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước (hoặc vùng lãnh thổ) xuất khẩu hoặc có hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng với khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách sau: 1) Giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự của nước (hoặc vùng lãnh thổ) xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong điều kiện thương mại thông thường; 2) Giá thành hợp lý của hàng hóa cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở mức hợp  lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, biện pháp chống bán phá giá được quy định tại Mục 2 Chương IV Luật quản lý ngoại thương năm 2017 do Quốc hội khóa 14 ban hành ngày 12 tháng 06 năm 2017.