án tích
"án tích" được hiểu như sau:
Đặc điểm xấu (hậu quả) về nhân thân của người đã bị kết án và áp dụng hình phạt được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp trong thời gian luật định.Khi người phạm tội đã bị tòa án tuyên hình phạt thì hậu quả pháp lý mà họ phải chịu không chỉ là việc phải chấp hành hình phạt đó mà còn bị coi là có án tích - đặc điểm xấu về nhân thân, bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời sống xã hội cũng như khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc hành vi phạm tội.Án tích được hiểu một cách bao quát và trước hết ở chỗ chủ thể đã bị kết án và áp dụng hình phạt về tội phạm nhất định (và chưa được xóa án tích). Trên cơ sở án tích, người phạm tội có thể bị xác định là phạm tội thuộc trường hợp tái phạm hay tái phạm nguy hiểm khi họ phạm tội lại. Khi đã được xác định như vậy họ bị coi có đặc điểm nhân thân là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Án tích được ghi và lưu lại trong lý lịch tư pháp của người phạm tội cho đến khi được xóa án tích. Việc xóa án tích được thực hiện theo những quy định của luật. Những quy định này hợp thành chế định xóa án tích trong luật hình sự.Trong luật hình sự Việt Nam, vấn đề án tích được đề cập đến một cách đầy đủ kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực. Trước khi có Bộ luật này, trong các văn bản pháp luật, tình tiết xấu về nhân thân liên quan đến án tích đã được quy định là tình tiết tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Đó là hai trường hợp cụ thể đặc biệt của trường hợp có án tích. Tuy nhiên, việc quy định này còn bị hạn chế bởi thiếu quy định về xóa án tích. Hạn chế này đã được khắc phục trong Bộ luật hình sự năm 1985.Trong Bộ luật hình sự năm 1999, các quy định liên quan đến án tích đã được hoàn thiện. Đồng thời trong Bộ luật này, ảnh hưởng của án tích đối với trách nhiệm hình sự cũng được mở rộng hơn. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, án tích được quy định chủ yếu ảnh hưởng đến mức độ trách nhiệm hình sự qua quy định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm. Án tích có thể là tình tiết định khung hình phạt tăng nặng hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, ý nghĩa quyết định của án tích trong việc xác định hành vi trái pháp luật là tội phạm đã được mở rộng đối với nhiều tội. Bên cạnh các tình tiết xấu về nhân thân như tình tiết đã bị xử phạt hành chính..., tình tiết có án tích (đã bị kết án... mà chưa được xóa án tích) đã được quy định là tình tiết định tội độc lập hoặc là tình tiết định tội thay thế cho tình tiết hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở nhiều tội danh. Ví dụ: Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản đã xác định: "1) Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm”.Án tích không phải là đặc điểm về nhân thân có tính vĩnh viễn. Sau một thời gian và kèm theo điều kiện cụ thể theo quy định của luật, án tích sẽ được xóa. Khi đó người đã có án tích được coi như chưa bị kết án. Theo quy định của luật hình sự hiện hành, có hai loại xóa án tích: xóa án tích theo quyết định của tòa án và xóa án tích đương nhiên (Xt. Xóa án tích).Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, trường hợp không bị coi là có án tích được quy định tại khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự năm 2015 do Quốc hội khóa 13 ban hành ngày 27 tháng 11 năm 2015: “Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích.”.