Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017
và được công bố theo
Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 17/2016/KDTM-GĐT ngày 10-11-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh, thương mại “Tranh chấp hợp đồng mua bán
hàng hóa” tại Thành phố Hồ Chí Minh giữa nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên A (do ông Nguyễn Duy T làm đại diện theo ủy quyền) với bị đơn
Công ty B; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Ngân hàng thương mại cổ
phần E (do ông Hứa Anh K làm đại diện theo ủy quyền) và Ngân hàng N (do bà Nguyễn
Thị V làm đại diện theo ủy quyền).
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 34 và Đoạn 36 phần “Nhận định của Tòa
án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thỏa
thuận phương thức thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), thỏa thuận thực hiện L/C
theo tập quán thương mại quốc tế (Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc tế) và phù hợp với
quy định của pháp luật Việt Nam. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là cơ sở của
L/C bị hủy bỏ.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải xác định thư
tín dụng (L/C) không bị mất hiệu lực thanh toán vì lý do hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế là cơ sở của thư tín dụng (L/C) bị hủy bỏ.
Quy định của pháp luật có liên quan đến án
lệ:
- Điều 3 Bộ luật Dân sự
năm 2005 (tương ứng với Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015);
- Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày
26-3-2002 của Ngân hàng Nhà nước về “Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán”;
- Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống
nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 (UCP 600) của Phòng Thương mại Quốc tế.
Từ khóa của án lệ:
“Thư tín dụng”; “L/C”; “UCP 600”; “Tập quán thương mại quốc tế”; “Hợp
đồng mua bán hàng hóa”; “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”; “Hợp đồng bị hủy bỏ”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 15-9-2011, đơn
khởi kiện sửa đổi bổ sung ngày 22-9-2011 và quá trình tố tụng, nguyên đơn do bà
Mai Thị Tuyết N - người đại diện hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên A trình bày:
Ngày 07-6-2011, Công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên A (gọi tắt là Bên mua, Công ty A) và Công ty B (gọi tắt là Bên
bán) có ký hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế số FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày
07-6-2011 (gọi tắt là Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011). Theo nội dung Hợp đồng
mua bán ngày 07-6-2011, Bên mua mua hạt điều thô nguồn gốc Ivory Coast, số
lượng là 1000 tấn x 1.385,50 USD/tấn theo phương thức thanh toán 98% L/C trả chậm
trong vòng 90 ngày kể từ ngày giao hàng dựa trên vận tải đơn (B/L) theo tiêu
chuẩn chất lượng như sau:
- Thu hồi 47 lbs/80kg và có quyền từ chối
nhận hàng khi thu hồi dưới 45 lbs/80kg.
- Hạt: số hạt tối đa là 205/kg. Từ chối là
220 hạt/kg.
- Độ ẩm tối đa là 10%. Từ chối độ ẩm là
trên 12%.
Hàng hóa sẽ được Vinacontrol giám định chất
lượng và khối lượng tại thời điểm giao hàng tại Cảng đến là Thành phố Hồ Chí
Minh.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
(L/C) trả chậm trong vòng 90 ngày, nên ngày 07-7-2011, Bên mua đã yêu cầu Ngân
hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ mở L/C trả chậm số 1801ILUEIB110002 (sau đây gọi tắt là L/C số 1801)
để Bên mua hoàn thiện thủ tục
mua lô hàng từ Bên bán.
Sau khi nhận hàng, theo Điều 8 của Hợp đồng,
Bên mua đã kiểm tra lại chất lượng và khối lượng lô hàng tại Cảng dỡ hàng là Cảng
Cát Lái Thành phố Hồ Chí Minh với sự giám sát của Vinacontrol thì phát hiện
hàng hóa của Bên bán không đảm bảo chất lượng. Cụ thể theo hai chứng thư của
Vinacontrol số 11G04HN05957-01 và số 11G04HN05939-01 ngày 31-8-2011 giám định về
khối lượng, phẩm chất và tình
trạng hàng hóa thì kết quả giám định thể hiện tỷ lệ bình quân nhận
thu hồi hạt điều cho hai lần cắt mẫu hạt điều là 37,615 lbs/80kg (tỷ lệ này quá
thấp so với điều kiện để từ
chối gần 10 lbs). Trước sự việc gian lận thương mại đó, Bên mua đã nhiều lần cố
gắng liên lạc với Bên bán để giải quyết vấn đề phát sinh về chất lượng lô hàng hạt điều nhập khẩu nhưng
không nhận được bất cứ phản hồi nào từ phía Bên bán.
Do đó, ngày 15-9-2011 Bên mua nộp đơn khởi
kiện đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu Tòa án buộc Bên bán nhận
lại lô hàng hạt điều 1.000 tấn vì chất lượng nhân thu hồi nằm trong điều kiện từ
chối nhận hàng của Hợp đồng là dưới 45 lbs, không đồng ý thanh toán tiền mua
hàng, đồng thời yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc Ngân hàng
Thương mại Cổ phần E tạm ngưng thanh toán cho Bên bán số tiền 1.313.308,85 USD
của L/C số 1801 theo cam kết thanh toán của Bên mua cho đến khi có quyết định
khác của Tòa án.
Ngày 12-8-2013 Bên mua đã đóng tiền tạm ứng án phí cho yêu cầu khởi kiện bổ
sung là yêu cầu hủy bỏ Hợp đồng
mua bán ngày 07-6-2011, đồng
thời yêu cầu hủy bỏ L/C số 1801.
Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn đề nghị:
1. Hủy bỏ Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011.
2. Buộc Bên bán phải đến kho Bên mua tại địa
chỉ ấp C2, quốc lộ 1A, xã C, huyện L, Lỉnh Đồng Nai ngay khi án có hiệu lực
pháp luật để nhận lại toàn bộ lô hàng theo Hợp đồng đã
giao. Sau 30 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Bên bán không đến
kho của Bên mua để nhận lại lô hàng thì Thi hành án có quyền bán lô hàng trên, để trả lại mặt bằng kho cho Bên mua.
3. Hủy nghĩa vụ thanh toán của Bên mua đối
với L/C số 1801 và yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần E hoàn trả ngay số tiền ký quỹ để bảo đảm thanh toán L/C là
1.313.308,85 USD cho nguyên đơn.
4. Yêu cầu Tòa án tiếp tục duy trì Quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời số 101/2011/QĐ-BPKCTT
ngày 23-9-2011 cho đến khi bản án phát sinh hiệu lực.
Đồng thời cho Bên mua nhận lại số tiền 1.500.000.000 đồng mà Bên mua đã thực hiện
đảm bảo theo Quyết định của Tòa tại Ngân hàng T chi nhánh P khi bản án phát
sinh hiệu lực.
Bị đơn là Công ty B (Bên bán) có trụ sở ở nước ngoài và đã được Tòa án
tống đạt hợp lệ cho Bên bán thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam theo đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tương trợ tư pháp 2007 và Thông tư liên tịch số
15/2011/TTLT-BTP-BNG-TANDTC
ngày 15-9-2011 nhưng Bên bán vẫn vắng mặt, không có ý kiến phản hồi.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Ngân hàng Thương mại Cổ
phần E trình bày:
Theo yêu cầu của Bên mua, ngày 07-7-2011,
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ đã phát hành L/C số 1801 với nội
dung như sau:
- Giá trị L/C 1.357.790 USD
- Mục đích nhập khẩu 1.000 tấn hạt điều
thô từ Bờ Biển Ngà;
- Ngân hàng thụ hưởng: Ngân hàng N, Singapore.
- Người thụ hưởng: Công ty B.
- L/C trả chậm mở theo UCP 600; với điều
khoản có thể xác nhận.
- Biện pháp bảo đảm: bảo lãnh của bên thứ
ba, TSBĐ; thẻ tiết kiệm.
- Ngày đến hạn thanh toán: ngày 29-9-2011
(961.813,66 USD) và ngày 17-10-2011 (351.495,19 USD).
Sau khi nhận được bộ chứng từ hợp lệ, Bên
mua đã ký nhận thanh toán đủ giá trị và đúng hạn đối với L/C. Căn cứ xác nhận của
Bên mua, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ đã ký chấp nhận hối phiếu.
Trên cơ sở đã xác nhận L/C, căn cứ vào
tình trạng bộ chứng từ, Ngân hàng N đã chiết khấu miễn truy đòi cho Bên bán đối
với 03 bộ chứng từ trị giá 1.313.308.85 USD vào ngày 25-7, 28-7 và ngày
08-8-2011.
Theo nội dung L/C đã phát hành thì L/C được
chi phối và áp dụng theo “Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” phiên bản mới nhất (hiện nay là UCP 600). Theo quy
định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát
hành cam kết thanh toán dựa trên bộ chứng từ và cam kết thanh toán, đồng nghĩa
với việc Bên mua đã thanh toán cho Bên bán. Căn cứ bộ chứng từ hợp lệ và chấp
nhận thanh toán của Bên mua, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã ký chấp nhận hối
phiếu. Ngân hàng N đã chiết khấu miễn truy đòi Bên bán đối với 03 bộ chứng từ của
L/C nêu trên.
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không đồng
ý với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án hủy bỏ L/C số 1801 và yêu cầu buộc Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E hoàn trả ngay số tiền ký quỹ là 1.313.308.85 USD cho nguyên đơn. Ngân
hàng Thương mại Cổ phần E đề
nghị Tòa án hủy bỏ ngay Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011 để Ngân hàng Thương mại cổ phần E thanh toán cho Ngân hàng N theo đúng thỏa thuận tại
L/C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Ngân hàng N trình bày:
Căn cứ Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011 và L/C số 1801 thì
Ngân hàng N (chi nhánh tại Singapore) là Ngân hàng chỉ định của Bên bán để thực
hiện thư tín dụng đảm bảo thanh toán do Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phát hành.
Phù hợp với nội dung của Quy tắc UCP 600,
Ngân hàng N đã chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ được xuất trình bởi Bên bán và đã
thanh toán giá trị của thư tín dụng cho Bên bán vào ngày 25-7-2011, ngày 28-7-2011 và ngày 08-8-2011. Như vậy,
Ngân hàng N đã mua L/C số 1801 cùng các chứng từ có liên quan một cách hợp pháp và trở thành người thụ hưởng
trực tiếp toàn bộ và bất cứ khoản thanh toán nào của thư tín dụng này. Sau khi
bộ chứng từ được xuất trình theo đúng quy định của thư tín dụng nêu trên, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã
xác nhận chấp nhận bộ chứng từ và cam kết sẽ thanh toán cho Ngân hàng N vào
ngày 29-9-2011 và 17-10-2011 nhưng việc thanh toán đã không được tiến hành do
Bên mua đề nghị và Tòa án đã ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời số 101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011.
Ngân hàng N yêu cầu Tòa án hủy bỏ ngay Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời số 101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011 và yêu cầu Bên mua phải bồi thường
thiệt hại gây ra cho Ngân hàng N từ hành vi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời trái pháp luật khiến Ngân hàng N không nhận được thanh toán giá trị
thư tín dụng nêu trên từ Ngân hàng Thương mại Cổ phần E. Khoản tiền Ngân hàng N yêu cầu bồi thường
thiệt hại là khoản tiền lãi vay mà Ngân hàng N hiện đang phải trả dựa trên tổng số tiền phải thanh toán theo 03 bộ chứng
từ xuất trình phù hợp cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần E tương ứng với thời
gian chậm thanh toán được tính từ ngày đến hạn thanh toán theo cam kết của Ngân
hàng Thương mại Cổ phần E
(ngày 29-9-2011) đến ngày Ngân hàng N nộp Đơn yêu cầu tham gia tố tụng trong vụ
kiện và dựa trên lãi suất vay Đôla Mỹ không kỳ hạn của liên ngân hàng tại thời
điểm nộp đơn (3,8%/12 tháng). Tổng số tiền thiệt hại mà Ngân hàng N yêu cầu Bên mua bồi thường là 33.270,49 USD
tương đương 694.188.774 VNĐ.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm
số 356/2014/KDTM-ST ngày 07-4-2014, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết
định:
“1. Hủy bỏ Hợp đồng mua bán số
FARCOM/RCN/IVC/036/2011 ngày 07-6-2011 giữa Bên bán là Công ty B và Bên mua là
Công ty TNHH một thành viên A.
Buộc Công ty B nhận lại toàn bộ lô hàng hạt
điều thô Ivory Coast số lượng là 1.000 tấn đã giao theo Hợp đồng mua bán số
FARCOM/RCN/IVC/036/2011 để tại
địa chỉ: kho Công ty TNHH một thành viên A ấp C2, quốc lộ 1A, xã C, huyện L, tỉnh
Đồng Nai. Sau 30 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, nếu Công ty B
không đến nhận lại lô hàng trên thì cơ quan Thi hành án có quyền bán phát mãi
lô hàng theo quy định của pháp luật trả lại mặt bằng kho cho Công ty TNHH một thành viên A.
2. L/C trả chậm số 1801ILUEIB110002 do
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E chi nhánh Đ phát hành ngày 07-7-2011 không còn
hiệu lực thanh toán. Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có nghĩa vụ thanh
toán cho Ngân hàng N theo L/C trả chậm số 1801ILUEIB110002 do Ngân hàng Thương
mại Cổ phần E chi nhánh Đ phát hành ngày 07-7-2011.
Buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải
hoàn trả cho Công ty TNHH một thành viên A tài sản bảo đảm cho việc thanh toán
L/C là số tiền ký quỹ 1.313.308,85
USD.
3. Tiếp tục duy trì biện pháp khẩn cấp tạm
thời áp dụng tại Quyết định số 101/2011/QĐ-BPKCTT ngày 23-9-2011 của Tòa án
nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và biện pháp bảo đảm áp dụng tại Quyết định số
100/2011/QĐ-BPĐB ngày
23-9-2011 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho đến khi bản án có hiệu
lực pháp luật. Công ty TNHH một
thành viên A được nhận lại toàn bộ số tiền 1.500.000.000đ (một tỉ năm trăm triệu đồng) ký quỹ trong tài
khoản phong tỏa số 1022130.3441.012 tại Ngân hàng T chi nhánh P mà Công ty TNHH
một thành viên A đã thực hiện gửi tài sản đảm bảo theo Quyết định buộc thực hiện
biện pháp bảo đảm số 100/2011/QĐ-BPĐB ngày 23-9-2011 của Tòa án nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh khi bản án có hiệu lực pháp luật.
4. Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng N
đòi Công ty TNHH một thành
viên A phải bồi thường thiệt hại với số tiền là 33.270,49 USD tương đương với
694.188.774 VNĐ”.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, lãi
suất trả chậm và thời hạn kháng cáo.
Ngày 21-4-2014, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
E có đơn kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm nêu
trên.
Tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số
29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh quyết định:
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số
40/2014/TLKDTM-PT ngày 18-8-2014 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng
hóa”.
2. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
356/2014/KDTM-ST ngày 07-4-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày 26-8-2015.
Ngoài ra, Tòa án còn quyết định về án phí.
Ngày 10-9-2015, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
E có đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét Bản án kinh doanh
thương mại sơ thẩm và Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số 11/2016/KN-KDTM ngày
07-3-2016, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Quyết định đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại số 29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số
29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh và hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 356/2014/KDTM-ST ngày
07-4-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định
của pháp luật.
Tại phiên toà giám đốc thẩm, đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH
CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 07-6-2011, Công ty TNHH một thành
viên A (Bên mua) và Công ty B (Bên bán) có ký Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011 với
nội dung: Bên mua mua 1.000 tấn hạt điều với phương thức thanh toán 98% L/C trả
chậm trong vòng 90 ngày, kể từ ngày giao hàng dựa trên vận đơn.
[2] Thực hiện hợp đồng nêu trên, Công ty A
đã yêu cầu và nộp số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD để Ngân hàng Thương mại Cổ
phần E phát hành L/C số 1801.
[3] Khi hàng về đến cảng Thành phố Hồ Chí
Minh, Bên mua đã yêu cầu Vinacontrol Thành phố Hồ Chí Minh giám định phẩm chất
và chất lượng hàng hóa theo Điều 8, Điều 11 của hợp đồng.
[4] Theo Chứng thư giám định về khối lượng,
phẩm chất và tình trạng hàng hóa ngày 31-8-2011 của Vinacontrol xác định: Tỷ lệ
nhân hạt điều thu hồi cho 2 lần cắt mẫu: Lần 1 là 38,2 lbs/80kg; Lần 2 là 37,03
lbs/80kg.
[5] Do tỷ lệ nhân hạt điều thu hồi thấp
hơn so với thỏa thuận của Hợp đồng, nên Bên mua đã khiếu nại bằng hình thức
mail cho Bên bán nhưng Bên bán không hợp tác. Vì vậy, Bên mua khởi kiện yêu cầu
hủy Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011, trả lại toàn bộ lô hàng cho Bên bán và hủy
bỏ nghĩa vụ thanh toán theo L/C số 1801 do Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phát
hành ngày 07-7-2011 và yêu cầu Ngân hàng Thương mại Cổ phần E hoàn trả lại số
tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD để đảm bảo thanh toán L/C số 1801 ngày
07-7-2011.
[6] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án, thấy rằng: Hình thức và nội dung của Hợp đồng mua bán ngày
07-6-2011 không vi phạm quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định tại
các Điều, Khoản, Mục 2 về quyền, nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng mua bán hàng hóa của Luật Thương mại năm 2005; tại Điều 15 của hợp đồng,
hai bên thỏa thuận khi có tranh chấp áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết.
[7] Quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm
đã thực hiện đúng thủ tục ủy thác tư pháp trong việc triệu tập bị đơn (Bên
bán), thông báo cho bị đơn biết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; đồng thời,
yêu cầu bị đơn gửi văn bản cho biết ý kiến của bị đơn về yêu cầu khởi kiện; mặc
dù bị đơn đã nhận được các văn bản triệu tập và thông báo này nhưng bị đơn
không có ý kiến phản đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[8] Căn cứ vào 02 Chứng thư giám định của
Vinacontrol do Bên mua xuất trình, có cơ sở để xác định bên bán đã có lỗi giao
hàng không phù hợp với Hợp đồng mua bán ngày 07-6-2011, nên theo Điều
39 Luật Thương mại, Bên mua có quyền từ chối nhận hàng. Mặt khác, sau khi
có chứng thư giám định của Vinacontrol, Bên mua đã khiếu nại về chất lượng hàng
hóa nhưng Bên bán không hợp tác. Do Bên bán giao hàng không đúng chất lượng như
đã thỏa thuận trong Hợp đồng làm cho Bên mua không đạt được mục đích của việc
giao kết Hợp đồng, nên có cơ sở xác định Bên bán đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ của
Hợp đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy bỏ Hợp đồng là có căn cứ đúng
quy định tại khoản 13 Điều 3, Điều 312 Luật Thương mại. Tuy
nhiên, khi giải quyết hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng, Tòa án cấp sơ
thẩm chưa giải quyết việc buộc Bên bán phải trả lại tiền đã nhận (nếu có) và bồi
thường thiệt hại cho Bên mua là chưa giải quyết đúng vụ án.
[9] Đối với việc giải quyết về yêu cầu hủy bỏ L/C số 1801:
[10] Căn cứ theo đề nghị mở L/C trả chậm của
Bên mua, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E Chi nhánh Đ đã mở L/C số 1801 ngày
07-7-2011, cụ thể:
[11] - Giá trị L/C: 1.357.790 USD;
[12] - Hình thức của chứng từ: Không hủy
ngang;
[13] - Mục đích: mua 1.000 tấn hạt điều
thô từ Bờ Biển Ngà;
[14] - Ngân hàng thụ hưởng: Ngân hàng N,
Singapore;
[15] - Người thụ hưởng: Công ty B;
[16] - Người yêu cầu: Công ty A;
[17] - Quy tắc áp dụng: UCP phiên bản mới
nhất.
[18] Sau đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần
E đã nhận được 03 bộ chứng từ đòi tiền từ Ngân hàng N, với tổng giá trị
1.313.308,85 USD, cụ thể:
[19] Ngày 25-7-2011: Bộ chứng từ
961.813,66 USD, đáo hạn ngày 29-9-2011;
[20] Ngày 29-7-2011: Bộ chứng từ
312.517,11 USD, đáo hạn ngày 17-10-2011;
[21] Ngày 09-8-2011: Bộ chứng từ 38.978,08
USD, đáo hạn ngày 17-10-2011.
[22] Sau khi nhận được các bộ chứng từ phù hợp với điều kiện L/C, Ngân hàng
Thương mại Cổ phần E đã gửi Công văn và các bộ chứng từ cho Bên mua và được Bên
mua xác nhận “Đã nhận đủ chứng từ và cam kết thanh toán đủ trị giá, đúng hạn
như trên; trên cơ sở đó, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E đã điện báo chấp nhận
thanh toán hối phiếu vào ngày đáo hạn của 03 bộ chứng từ nêu trên cho Ngân hàng
N.
[23] Theo quy định pháp luật Việt Nam về
thanh toán chứng từ, thì:
[24] Tại khoản 4 Điều 3 Luật
Các tổ chức tín dụng năm 2010, quy định: “Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
ngân hàng được quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại, bao gồm: Tập quán
thương mại quốc tế do Phòng Thương mại Quốc tế ban hành; tập quán thương mại
khác không trái với pháp luật Việt Nam”.
[25] Tại khoản 1 Điều 16
Quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN ngày 26-3-2002 của Ngân hàng Nhà nước về
“Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán” quy
định: “Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được Ngân hàng mở theo
yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để:
[26] Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng
khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng; hoặc
chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của
người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của
thư tín dụng”.
[27] Tại khoản 1 Điều 19 của
Quyết định 226 nêu trên quy định: “Thanh toán bằng thư tín dụng: Việc mở,
phát hành, sửa đổi, thông báo, xác nhận, kiểm tra chứng từ, thanh toán và quyền,
nghĩa vụ của các bên liên quan trong thanh toán thư tín dụng thực hiện theo quy
tắc chung về tín dụng chứng từ do Phòng Thương mại Quốc tế ICC ban hành, do các
bên tham gia thỏa thuận và theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
[28] Mặt khác, tại thư đề nghị mở L/C của
Bên mua có thỏa thuận: Quy tắc
áp dụng là UCP phiên bản mới nhất. Theo Bản sửa đổi về quy tắc thực hành thống
nhất tín dụng chứng từ lần thứ 6 năm 2007 của Phòng Thương mại Quốc tế (UCP 600) thì:
[29] “Tín dụng thư là một sự thỏa thuận,
dù cho được mô tả hoặc đặt tên thế nào, là không thể hủy bỏ và theo đó là một sự cam kết chắc chắn của Ngân hàng phát hành để thanh toán khi xuất trình chứng từ phù hợp”
(Điều 2).
[30] “Về bản chất, tín dụng là một giao dịch
riêng biệt với Hợp đồng mua bán và các hợp đồng khác là cơ sở của tín dụng. Các
Ngân hàng không liên quan đến hoặc ràng buộc bởi các hợp đồng như thế, thậm chí
ngay cả khi tín dụng có dẫn chiếu đến các hợp đồng như thế. Vì vậy, sự cam kết
của một Ngân hàng để thanh
toán hoặc thương lượng thanh toán,... không phụ thuộc vào khiếu nại hoặc biện hộ
của người yêu cầu phát hành tín dụng phát sinh từ các quan hệ của họ với Ngân
hàng phát hành hoặc người thụ hưởng” (Điều 4).
[31 ] “Ngân hàng giao dịch với chứng từ chứ
không phải bằng hàng hóa, dịch vụ hoặc các thực hiện khác mà các chứng từ có
liên quan” (Điều 5).
[32] “Ngân hàng phát hành bị ràng buộc
không thể hủy bỏ đối với việc
thanh toán từ thời điểm Ngân hàng phát hành L/C” (Điều 7).
[33] “Khi ngân hàng phát hành xác định việc
xuất trình là phù hợp, thì nó phải thanh toán” (Điều 15a).
[34] Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của
Bên mua và nội dung L/C đã phát hành thì L/C số 1801 là một giao dịch riêng biệt
đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; được chi phối và áp dụng theo
UCP 600. Theo quy định của UCP
600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải thanh toán khi xác định bộ
chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng.
[35] Về bộ chứng từ của L/C nêu trên quy định:
Bộ chứng từ bao gồm Giấy chứng nhận trọng lượng và chất lượng được giám định
viên độc lập cấp (không quy định hàng hóa phải được kiểm định lại tại cảng đến
bởi một cơ quan kiểm định nào). Trong bộ chứng từ xuất trình đã có Giấy chứng
nhận trọng lượng và chất lượng được giám định viên độc lập nước ngoài cấp là
phù hợp với quy định L/C; đồng thời, Bên mua đã ký chấp nhận bộ chứng từ và cam
kết thanh toán đủ giá trị, đúng hạn, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại căn cứ vào kết luận giám định của
Vinacontrol Thành phố Hồ Chí Minh (tại cảng đến) để kết luận bộ chứng từ không hợp lệ là không đúng với quy định tại
L/C và cam kết của Bên mua.
[36] Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng
N cho rằng đã chiết khấu bộ chứng từ hợp lệ và thanh toán cho Bên bán vào ngày
25-7-2011, ngày 28-7-2011 và ngày 08-8-2011, đồng thời xuất trình các thông báo
chiết khấu hóa đơn xuất khẩu
để minh chứng cho việc đã
thanh toán tiền cho Bên bán. Tuy nhiên, ngoài tài liệu này, Ngân hàng N không
xuất trình được bất kỳ tài liệu, giấy tờ nào khác thể hiện việc đã thanh toán tiền cho Bên bán. Do đó,
trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định Ngân hàng
N đã trả tiền cho Bên bán hay chưa? Nếu đã trả tiền thì số lượng tiền trả là
bao nhiêu? Trường hợp nếu Ngân hàng N đã trả tiền cho Bên bán theo L/C số 1801 thì Ngân hàng Thương mại cổ phần E
phải giải quyết theo yêu cầu của Ngân hàng N. Do những vấn đề nêu trên chưa được làm rõ, nhưng Tòa án
cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng L/C số 1801 là một phần
không thể tách rời của Hợp đồng
mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì
các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ
đó quyết định L/C số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E không có nghĩa vụ
thanh toán cho Ngân hàng N theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E phải trả cho bên
mua số tiền ký quỹ là
1.313.308,85 USD là chưa đủ cơ sở và chưa đúng với các quy định tại UCP 600.
[37] Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngân hàng
Thương mại Cổ phần E kháng cáo toàn
bộ bản án sơ thẩm nêu trên. Tòa án cấp phúc thẩm đã ra Quyết định đưa vụ án ra
xét xử và tống đạt Giấy triệu tập đương sự tham gia phiên tòa vào các ngày
25-9-2014, ngày 27-10-2014, ngày 31-10-2014, ngày 16-4-2015 nhưng các phiên tòa
này đều hoãn vì các lý do khác nhau như: vắng mặt đương sự, vắng mặt đại diện
Viện kiểm sát, cần thời gian thực hiện ủy thác tư pháp,...
[38] Tại Quyết định số 09/2015/QĐPT-KDTM
ngày 29-5-2015, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm để tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp trong việc triệu tập Công ty B tham
gia phiên tòa phúc thẩm.
[39] Tại Quyết định không số ngày
10-8-2015, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vụ
án ra xét xử phúc thẩm vào
ngày 26-8-2015.
[40] Ngày 19-8-2015, Ngân hàng Thương mại
Cổ phần E nhận được Giấy triệu tập tham dự phiên tòa nêu trên; ngày 24-8-2015
Ngân hàng Thương mại Cổ phần E có đơn xin hoãn phiên tòa với lý do người đại diện
theo ủy quyền của Ngân hàng Thương mại Cổ phần E là ông Hứa Anh K đang đi công
tác. Tại phiên tòa ngày 26-8-2015, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận đơn xin
hoãn phiên tòa của ông K mà cho rằng Ngân hàng Thương mại Cổ phần E (người kháng cáo) đã được triệu tập
hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, từ đó ra quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm.
[41] Việc Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên là không đúng quy định của pháp
luật, vì tại khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP
ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét
xử kết thúc vào ngày ra quyết
định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bắt đầu tính lại kể từ
ngày Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ
không còn nữa”. Như vậy, do có Quyết định tạm đình chỉ vụ án trên, nên khi Tòa
án cấp phúc thẩm tiếp tục xét
xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn
chuẩn bị xét xử phúc thẩm bắt đầu được tính lại kể từ ngày Tòa cấp phúc thẩm ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử (tức
là ngày 10-8-2015). Do đó, phiên tòa phúc thẩm ngày 26-8-2015 mà người kháng
cáo (Ngân hàng Thương mại Cổ phần E) vắng mặt thì đây được coi là người kháng
cáo được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì dù có lý do chính đáng hay không có
lý do chính đáng, Tòa án phải hoãn phiên tòa theo quy định tại Điều
266 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 và Điều
16 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng đại diện của Ngân hàng Thương mại Cổ
phần E đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
không vì lý do bất khả kháng, từ đó ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là
không đúng; việc Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản
2 Điều 337, khoản 3 Điều 343, Điều 345 Bộ luật Tố tụng dân sự.
QUYẾT ĐỊNH:
1- Chấp nhận Quyết định kháng nghị số
11/2016/KN-KDTM ngày 07-3-2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
2- Hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
số 29/2015/QĐPT-KDTM ngày 26-8-2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh và hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 356/2014/KDTM-ST ngày
07-4-2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
3- Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“[34] Như vậy, theo đơn đề nghị mở L/C của Bên mua và nội dung L/C đã phát
hành thì L/C số 1801
là một giao dịch riêng biệt đối với Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011;
được chi phối và áp dụng theo UCP 600. Theo quy định của UCP 600, Ngân hàng Thương mại Cổ phần E với tư cách là Ngân hàng phát hành phải
thanh toán khi xác định bộ chứng từ xuất trình là phù hợp tại Ngân hàng...
[36]... Tòa án cấp sơ thẩm lại cho rằng phương thức thanh toán bằng
L/C số 1801 là một phần
không thể tách rời của
Hợp đồng mua bán hàng hóa ngày 07-6-2011; do vậy, khi hợp đồng này bị hủy toàn bộ thì các bên không phải tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng; từ đó quyết định L/C số 1801 không còn hiệu lực thanh toán và Ngân hàng Thương mại Cổ phần E không có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N
theo L/C nêu trên; đồng thời buộc Ngân hàng Thương mại Cổ phần E phải trả cho bên mua số tiền ký quỹ là 1.313.308,85 USD là chưa đủ
cơ sở và chưa đúng với
các quy định tại UCP 600".